Thứ Tư, 11/11/2020 11:12

Một đoạn trích từ tiểu thuyết "Petrichor" của Aisling Smith

Nhưng Benjamin đang làm việc muộn tại văn phòng. Anh hôn cô khi về đến nhà nhưng tâm trí anh vẫn ở đâu đó ngoài bậc cửa. 

. Đoạn trích từ tiểu thuyết Petrichor (tạm dịch: Hương mưa quyện với đất cằn) đoạt giải Richell 2020 của Aisling Smith

Ảnh minh họa.

“Có chuyện gì với Benjamin vậy nhỉ?

Malti cảm nhận được những điều lạ lùng trong chính cơ thể mình. Không chỉ ở nơi từng là tử cung hình tam giác của cô, nơi mà giờ đây cô biết rằng đứa con của họ đang lớn dần lên, mà còn ở đâu đó đằng sau lồng ngực của cô nữa. Cô chưa nói cho Benjamin biết cô đã có thai. Ngày mai, mọi việc sẽ được giải quyết xong xuôi và họ sẽ giữ quyền sở hữu ngôi nhà bên bờ biển. Tất cả những điều mới mẻ này khiến Malti bất giác rùng mình: có thể là do phấn khích, có thể là do hồi hộp, cô cũng không biết chắc đó là cảm giác gì. Cô cắt tóc dài chạm vai và vứt đi sáu thùng rưỡi chứa những cuốn tiểu thuyết cũ (hầu hết chúng thuộc thể loại cổ điển trong danh mục sách của trường trung học mà cô từng theo học. George Eliot và Katherine Mansfield ơi, xin thứ lỗi nhé) và tiếp tục đếm ngược những ngày tháng đang trôi về phía trước cho tới ngày kết thúc chu kì tất yếu theo một cuốn lịch được treo trong nhà bếp.

Nhưng Benjamin đang làm việc muộn tại văn phòng. Anh hôn cô khi về đến nhà nhưng tâm trí anh vẫn ở đâu đó ngoài bậc cửa. Họ đã chung sống và chia sẻ bao điều nhưng giờ đây anh bỗng trở nên lầm lì và ít nói. Vì sao anh không nói chuyện? Anh không còn kể cho cô nghe những điều mà anh đang nghiên cứu và hay khi cô kể chi tiết câu chuyện của mình, cô có thể cảm nhận anh không thực sự để tâm. Anh chỉ gật đầu và ậm ừ khi cần, đôi mắt của anh đã không còn nhìn sâu vào trong đôi mắt cô nữa.

Ngôi nhà mới đang chờ họ dọn đến, nằm lơ lửng trên ngọn đồi duyên dáng uốn lượn qua vịnh Port Phillip. Ngôi nhà này là mong muốn của họ suốt nhiều năm trời. Nó khác xa so với ngôi nhà thuê đầu tiên của họ cách đây mười hai năm, một pháo đài trải rộng ở phía sau của tòa biệt thự Armadale, không có lò sưởi mùa đông và không cần đến tiền mặt theo bất kì cách thức nào. Dù hiện tại cả cô và Benjamin đều đang kiếm được kha khá tiền, song nơi ở trên con đường ven bờ biển Beach Road này vẫn đổi bằng nhiều năm làm việc chăm chỉ và những đợt lao động cật lực dịp cuối năm nhằm làm đầy số tiền tiết kiệm của họ và mục đích trừu tượng gọi là Cơ hội Tương lai.

Nhưng khi Malti lái xe ra đi thăm căn nhà vào buổi tối trước khi họ chuyển vào, cô ngồi bên đường trong chiếc xe Fiat của mình, quan sát những cánh cửa sửa tối của căn nhà, cô boăn khoăn tự hỏi không biết liệu căn nhà liệu có xứng đáng với bấy nhiêu đánh đổi hay không? Căn nhà mà họ đang thuê ở Oakleigh là một căn nhà không có người ở cũng giống như căn nhà này tối nay. Hiện tại là 9 giờ tối và Ben vẫn đang ở chỗ làm việc. Ngay bây giờ, những gì cô có thể nhìn nhận về ngôi nhà mơ ước, đó là những căn phòng và những đồ đạc im lìm chìm trong bóng tối.

-------------

Đôi khi Malti tự hỏi liệu có phải cô đã mang một lời nguyền đổ xuống đầu họ không? Cô lớn lên cùng với những câu chuyện và những điều mê tín dị đoan, bởi thế khó mà phủ nhận được những điều này. Cô ấy biết rõ từng gốc tích của những câu chuyện dân gian và hành trình từ khởi đầu phát triển đến nở rộ của nó như thế nào thông qua việc kể lại truyền đời. Cô vẫn nhớ cha mình ngồi ở ghế trước của xe hơi, hai bàn tay đặt trên vô lăng cách nhau một khoảng (ở vị trí 10 giờ và 2 giờ) lúc đang kể cho cô nghe về Udre Udre với chất giọng nam trung của ông. Cô lại nhớ cái cảm giác hơi lạnh xâm chiếm da thịt mình, dù cả ba cửa kính xe hơi đều đã hạ xuống phân nửa mà cô cảm giác hơi lạnh chuyển thành cảm giác nóng ran như đang quấn mình trong một tấm chăn dày dệt bằng hơi nóng miền nhiệt đới. Udre Udre là kẻ ăn thịt người mà chỉ nghe tên đã khiến người ta sợ bạt vía trên hòn đảo. Những truyền thuyết từ xa xưa kể rằng rằng nếu ăn thịt đủ một ngàn cơ thể thì sẽ có khả năng sống bất tử và Udre Udre đã tin điều đó. Hấp thụ cơ thể của kẻ thù để chuyển hóa chúng thành thân thể của chính mình. Hãy cẩn thận nếu không Udre Udre sẽ tóm được con, cha cô từng gầm gừ trêu chọc như một cái xe hơi nổ khục khặc yếu ớt để lăn bánh qua đám sỏi thô. Chất giọng của ông như tiếng nói vọng về từ những năm 1930 khi ông còn đang là một đứa trẻ học tiếng Anh qua đài phát thanh cộng với sự chính xác, lạnh lùng của người trưởng thành đã tạo nên một câu chuyện mang cảm giác thật ghê rợn.

Khi tâm trí của cha cô đang bị bao phủ bởi những hóa đơn điện và bản tin phát sóng lúc 6 giờ chiều, nhưng trên ghế sau xe hơi, Malti lại vẫn mở to mắt, sẵn sàng và háo hức đón chờ những điều ảo diệu phi thường. Sự huyền bí mang tính truyền thuyết của cái người có cái tên nhân đôi Udre Udre khiến cô rùng mình. Sức ảnh hưởng của cái tên đó dường như không bao giờ thuyên giảm đối với cô. Thậm chí ngay cả bây giờ, nếu cô nghĩ đến câu chuyện, cô sẽ tỏ ra lúng túng một cách đầy bất an và Ben sẽ nhướng đôi mày hỏi cô: “Em sợ hãi hay làm sao đó?”

Udre Udre. Ông ta là nhân vật truyền thuyết phải cảnh giác với trong các hộ gia đình, một quái nhân gớm ghiếc có mùi dừa - hãy cẩn thận nhé con, hoặc Udre Udre sẽ bắt được con đấy - nhưng lại có sức mạnh lớn hơn cả sinh vật vô hình đến từ phương Tây ẩn nấp dưới gầm giường. Bởi ông ta là nhân vật có thật. Họ đã lái xe ngang qua mộ của ông ta một lần, theo một con đường chạy ra và hướng tới Rakiraki, trên hành trình về nhà họ ở Nadi. Malti cảm thấy ớn lạnh sống lưng, gai ốc nổi lên như có sâu bò trên da – cứ như thể có thứ gì đó dần tụ lại lửng lơ trên những cành cây, còn những lối đi, những con đường bỗng uốn lượn ngoằn ngoèo, nhưng có những khi cô còn cảm thấy đáng sợ hơn thế nữa. Bầu không khí trở nên khác lạ. Từ cửa sổ, Malti nhìn chằm chằm theo hướng ngón tay cha chỉ ra phía ngôi mộ. Đôi lúc, hành động nhìn ra ngoài có thể giúp cho cô có cảm giác an toàn và nếu cô không nhìn theo, ai mà biết được chuyện gì có thể xảy đến. Cô áp hai lòng bàn tay đẩy một sườn cửa sổ xe hơi ngay khi họ đến nơi và cho đến lúc cuối cùng khi cô buông cho chúng trôi ra, hai bàn tay cô đã để lại dấu mồ hôi ẩm ướt trên mặt tấm kính. Ngôi mộ từng được sơn trắng xóa, giờ đã dính bẩn, thâm ố và bẩn thỉu. Ở một sườn của nó, tên của ông ta đã được sơn lên bằng các chữ cái viết hoa. Khá lâu sau khi chiếc xe nhỏ màu xanh của họ xuống đường, Malti đã xoay người và liếc ra ngoài cửa sổ sau một cách khó chịu. Mỗi lần như vậy, tất cả những gì cô nhìn thấy chỉ là đám bụi bị vẩn tung lên bởi những chiếc bánh xe đang quay tròn xoáy lên thành từng cụm chạy theo đằng sau họ, và một con đường đầy bụi có hàng cây xanh vây quanh. Không có ai hay cái gì đang theo vết sau đuôi chiếc xe cả. Nhưng cô cứ phải kiểm tra và đảm bảo cho chắc chắn về điều đó. Đám bụi có thể để lại dấu vết đường đi và phải làm sao để chắc chắn rằng Udre Udre phải không thể đi theo họ về nhà được. Những kẻ đến từ bóng tối hay những con ma – bọn chúng - tốt hơn hết là không được đi theo họ về nhà.

Ngay cả bây giờ, Malti không thấy mình mê tín chút nào. Cô ấy gọi đó là trạng thái cởi mở. Từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều, cô rất logic và có nguyên tắc hợp lí - nhưng cô sở hữu ba bộ bài tarot riêng biệt và luyện tập tiên đoán bằng tâm thức mỗi đêm. Cô sẽ ném muối qua vai đề phòng có ai đó đang để mắt dõi theo mình. (Tục phương tây theo tín ngưỡng tin rằng ném muối qua vai ra phía sau có thể che mắt quỷ dữ nếu có ở đó).

“Bán tín bán nghi vậy,” Benjamin ghẹo bỡn cô. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, nhỡ đâu lại có thật.” Anh tất nhiên cũng làm thế thật, đúng như anh nói: đi nhà thờ một lần mỗi năm vào các đêm Giáng Sinh, chỉ vì nhỡ đâu Chúa có thực và đang ở đâu đó, tình cờ dõi theo và điểm danh xem ai đã đi nhà thờ thì sao. Malti biết rằng anh sẽ mong muốn con của họ được rửa tội.

Nhưng không phải lúc nào họ cũng đồng quan điểm về mọi chuyện.

Vào dịp kỉ niệm ngày cưới của họ cách đây 18 tháng, Benjamin đã tặng cô một bộ dao ăn và cô không thể giấu được sự lo lắng của mình. Đã 8 giờ tối thứ Ba và nhà hàng Pháp gần như vắng tanh. Có quá nhiều nhân viên đứng ở phía xa chỉ để phục vụ cho ba cặp đôi ăn tối tại đây. Những người phục vụ đi vòng quanh một cách vu vơ, tụ lại thành đám, trao đổi những vài lời nói qua quít với nhau gần khu để bộ đồ dao ăn. Malti thấy họ lén liếc nhìn đồng hồ đeo trên tay một cách ảm đạm. Malti và Benjamin đều đã đến thẳng đây từ chỗ làm. Malti đến trước và tô lại lớp son Chanel màu mận chín của mình bằng một chiếc gương nhỏ gọn. Mặt kính của gương đã bị bào xước do bị quăng quật trong chiếc túi xách rộng của cô và cô phải căng mắt nhìn vào hình ảnh phản chiếu của mình trong ô tròn nhỏ đó. Khi cô chớp được hình ảnh Benjamin đang sải bước loáng thoáng trong gương, cô gập tấm gương lại một cách vội vã và ngượng ngùng. Mỗi sáng, anh đều thấy cô đánh răng và thức dậy với khuôn mặt mộc chưa trang điểm. Việc trang điểm của cô lẽ ra không có gì đáng nói, nhưng không hiểu sao cô thấy khi bị bắt gặp khi đang trang điểm khó xử hơn nhiều khi bị nhìn thấy đang để mặt mộc. Benjamin mang một món quà trên tay, sự tinh tế toát lên từ lớp giấy bọc không chê vào đâu được. Giấy bóng kính đỏ và một sợi ruy băng vàng kim vuốt cong, giống như Malti mặc chiếc áo đỏ và đeo trang sức bằng vàng tối nay vậy – một chớp mắt gợi nhớ về chiếc váy cô ấy từng mặc trong ngày cưới của họ, cả hai gật đầu ranh mãnh với nhau. Ben cúi xuống hôn môi cô rồi ngồi xuống ghế.

“Em bị khuất phục rồi,” anh huýt sáo, đôi mắt xanh thẫm ánh lên vẻ nồng nhiệt.

Anh trao món quà một cách vụng về, bằng một tay và nhận lại món quà của chính Malti theo cùng một cung cách tương tự. Một số người luôn luôn hành xử với những món quà tặng như những trái bom vậy. Nhưng Malti và Benjamin đều biết chiếc hộp nhung mà cô đã đưa cho anh chứa món quà gì từ trước khi anh ấy mở nó ra, vậy nên anh đã nói trước. Khuy măng séc - đúng như dự đoán.

Mặc dù anh mỉm cười, nhưng anh không buồn làm ra vẻ ngạc nhiên. Đó là món quà để anh chưng diện. Cô ấy đã làm việc ở CBD quá lâu: đây là món quà dành cho một luật sư chứ không phải một nhà ngôn ngữ học. Benjamin vẫn mỉm cười và nhoài người qua bàn để hôn cô một lần nữa và hứa sẽ mang đôi khuy măng séc vào ngày hôm sau, mặc dù thời nay hầu hết áo sơ mi đều cài cúc ở cổ tay và anh sẽ phải đặc biệt chọn ra một chiếc trong những chiếc áo trang trọng của mình để hợp với chúng, việc này khá phiền phức. Ở một giai đoạn nào đó trước đây, anh ấy đã làm thế mà không đắn đo gì, chỉ đơn giản để khiến cô vui và nở nụ cười khi cô nhìn thấy anh dùng món quà mà cô tặng. Nhưng đến giờ, anh có vẻ chỉ nghĩ về chuyện sẽ cảm thấy khó chịu như thế nào khi mang chúng cả ngày.

Nhưng món quà của anh dành cho Malti lại khiến cô ấy bất ngờ. Khi lớp giấy gói rơi ra và cô nhìn thấy những bức ảnh trên hộp các tông, cô cắn vào môi.

“Bộ Dao ăn Wüsthof. Hình thức đẹp, chức năng cao và chất lượng tốt. Bảo đảm về độ chính xác,” cô đọc to. "Chúng, những thứ này... tuyệt vời quá."

“Anh nhớ có lần em nói chúng ta cần bộ dao ăn tốt.”

"Vâng đúng thế thật. Chúng ta cần mà. Thật tuyệt quá. Rất tuyệt…”

Anh lắng nghe thấy sự ngập ngừng trong giọng nói của cô, dấu chấm lửng ở cuối câu đã ngầm ám chỉ điều đó nhưng vẫn không đoán được cụ thể ý của cô là gì. Cô đến đây một mình và chờ đợi khá lâu như mọi người vẫn thường như vậy.

“ Nhưng,” cô ấy nói, “ Ben, anh có nghĩ món quà tặng em này là một ý tưởng hay không?”

“Ý em là gì?”

“Những vật thể sắc bén là điềm báo cắt đứt những mối quan hệ.”

“Sao cơ?”

“Anh biết không anh không nên tặng người thân yêu gần gũi với mình nhưng vật sắc bén. Nó được coi là điềm xấu.”

“Một chuyện đồn thổi trong nhóm các bà vợ đã kết hôn lâu ngày à?”

“Vâng!”

“Ôi, vì chúa.” Và giờ sự nồng nhiệt đã lan tỏa từ đôi mắt, len lỏi vào trong giọng nói của anh.

“Theo Chủ nghĩa Tượng trưng,” cô thì thầm.

"Thật nực cười. Cứ giữ lấy chúng và tận hưởng thôi”.

“Vâng, em cho là vậy. Em muốn nói là, dù sao thì vẫn cảm ơn anh. Chúng thật đáng yêu”. Cô ấy đã nhặt bộ dao ăn của mình lên. Con dao này gần như đã cũ mòn bằng con dao cắt bơ trong tay cô, nó khác biệt một trời một vực với những con dao ăn được đóng gói và đang đợi sẵn trong hộp quà - những con sắc bén, sáng bóng. Cô cắt ổ bánh mỳ nhỏ. “Em biết chúng ta có thể làm gì rồi,” vài phút sau, cô ấy nói, trong lúc đặt con dao ăn của mình xuống bàn. “Tại sao lại không đưa trả cho anh một đồng xu bằng bạc nhỉ - giống như trả tiền lấy khước hoặc giải hèm thôi. Như thế, về mặt lí tính, chính là em mua chúng từ anh.” Benjamin không nhìn cô, khuôn mặt anh ỉu xìu khi anh đọc lại danh mục các loại rượu.

“Được thôi. Cũng tốt mà.”

Malti rút ví của mình ra, ngay tại đó, bên bàn ăn, và ngay trước khi Benjamin nhận lấy đồng 50 xu mà cô chìa ra, cô đã cảm nhận được các cạnh của đồng xu cứng như thế nào trong lòng bàn tay mình. Khuôn mặt của anh thận trọng không biểu lộ chút cảm xúc nhưng cô vẫn biết rất rõ sự kiên quyết của cô đang dẫn tới ranh giới giữa vẻ khả ái đáng yêu và sự phiền phức khó chịu. Họ cùng nhau dùng bữa, ăn từng miếng cẩn thận, mỉm cười nhẹ nhàng với nhau và cố gắng tỏ ra thanh lịch, tuy nhiên không ai trong số họ nhắc đến món quà của mình thêm lần nào nữa.

Trở về nhà vào buổi tối hôm đó, Malti cẩn thận dỡ những con dao mới, bỏ vào vào kệ gỗ thông giữ đồ bạc của họ. Cô phải thừa nhận rằng chúng trông rất đẹp, ấn tượng: tay cầm của chúng được sơn màu đen, với một chút logo màu đỏ ở phía dưới. Màu sắc của chúng cảnh báo về độ sắc bén và kêu gọi tinh thần thận trọng khi sử dụng. Trong những tuần tiếp theo, cô cảm thấy mình khá thích chúng - cả ngắm nhìn và sử dụng. Chúng rất vừa tay cô và nhẹ nhàng như một cây bút. Cô cố gắng không nghĩ lại về những lo lắng ban đầu mà cô đã từng có khi nhận chúng. Một số loại quà rất khó để trao theo những cách thức quyến rũ, nhưng về sau, khi cô lại nghĩ về mối lo lắng đó trong nhận thức của mình, cô nhận thấy đó là một sự hối tiếc tội lỗi ghê gớm. Cô và Benjamin chưa bao giờ nói chuyện thêm nữa về món quà sau đó, nhưng đôi khi cô tự hỏi anh đã làm gì với đồng 50 xu ấy. Và sau đó, không thể tránh khỏi, một suy nghĩ cố chấp sẽ xuất hiện trong đầu cô: 50 xu liệu đã đủ chưa nhỉ?”…

KIỀU HÒA theo The Guardian Australia