Thơ Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 - 1977)
Vladimir Nabokov đã sáng tác nhiều thơ trước khi trở thành một nhà văn nổi tiếng. Trong cuốn tự truyện của mình Nói, kí ức (Speak, Memory, 1967) ông viết “Mùa hè năm 1914… khi sự xúc động dữ dội của những câu thơ đầu tiên nhập vào tôi”. Còn trong lời giới thiệu của cuốn Thơ và những vấn đề (Poems and Problems, 1970) ông kể lại: “Một số lượng đều đặn của những bài thơ bắt đầu ứa ra từ tôi trong những năm tuổi trẻ, từ hơn nửa thế kỉ trước…”. Những bài thơ của Nabokov lần đầu tiên xuất hiện trong tuyển tập thơ Stikhi (1916) trong thời gian gia đình ông vẫn còn ở Nga. Sau Cách mạng Tháng Mười, năm 1919, khi cùng gia đình di cư đến Tây Âu, Nabokov tiếp tục viết và xuất bản những bài thơ của mình trên các tạp chí bằng tiếng Nga mà bố của ông là biên tập viên. Vào tháng 12 năm 1922, 36 bài thơ của ông đã được đưa vào Tuyển tập (The Cluster), và tháng 1 năm 1923, 156 bài thơ khác của ông được đăng trên tạp chí The Empyrean Path.
Khi Chiến tranh Thế giới lần 2 xảy ra, Nabokov cùng gia đình sang Mĩ. Năm 1952 ông cho ra đời tập thơ mỏng: Stikhotvoreniia 1929 - 1951 với 15 bài thơ tiếng Nga được viết trong giai đoạn 1930 - 1940. Năm 1959 ra tập Thơ (Poems) với 14 bài được viết bằng tiếng Anh (đã được đăng trên tờ NewYorker). 14 bài thơ này được xuất bản lại trong tập Thơ và Những vấn đề (1970) cùng với 39 bài thơ Nga mà Nabokov đã dịch cho tạp chí. Tới năm 1979, tức hai năm sau khi ông mất, những bài thơ đó được tái xuất bản trong tuyển tập các bài thơ Nga khác, với tựa đề đơn giản Stikhi hoặc Poems.
Ba bài thơ dưới đây của Nabokov được chọn dịch từ cuốn Vladimir Nabokov, Thơ tuyển (Vladimir Nabokov, Selected Poems (2012) do Thomas Karshan biên soạn, xin giới thiệu cùng bạn đọc.
(Lời giới thiệu có tham khảo từ cuốn Vladimir Nabokov, Selected Poems do Thomas Karshan chủ biên (2012) – Nd.)
Cho tuổi trẻ của tôi
Chúng ta đã từng tin chắc rằng, anh và em, trong một tồn tại
thống nhất; nhưng giờ đây anh liếc nhìn lại - thì
thật kinh ngạc - sao mà khách quan, sao mà hư ảo trong
cách mà em trở thành, tuổi trẻ của anh
Khi ai đó để ý, giống như một lớp sương khói của
một con sóng giữa em và anh, giữa chỗ cạn và chỗ
chết đuối - hoặc anh thấy con đường lùi xa, và em
từ phía sau khi em nhấn pedal đạp thẳng vào hoàng hôn
Em không còn là anh nữa, em là một phác thảo, một đề tài
của bất kì chương sách đầu tiên nào - nhưng đã bao lâu chúng ta tin
trong sự liền mạch của con đường từ hẻm núi ẩm ướt
đến hoa thạch thảo trên núi.
Hành hình
Vào những đêm nào đó khi tôi nằm xuống
chiếc giường của tôi bắt đầu trôi về nước Nga
lúc này tôi đang bị dẫn tới một khe núi,
tới một khe núi để bị giết
Tôi đi bộ - trong bóng tối, từ một chiếc ghế
nơi chiếc đồng hồ và những que diêm nằm
tiến vào mắt tôi, như mõm súng kiên định,
mặt đồng hồ phát sáng nhìn chằm chằm
Dùng hai bàn tay che ngực và cổ -
nó sẽ nổ tung ngay lập tức, bây giờ!
tôi không dám nhìn đi chỗ khác
khỏi cái đường tròn lửa vô tri
Tiếng tích tắc của đồng hồ kết nối
với ý thức đóng băng
sự bảo hộ may mắn
tôi giành lại được từ nỗi lưu vong
Nhưng ước gì hỡi em, trái tim tôi,
rằng tất cả điều đó là sự thực:
nước Nga, những vì sao, đêm hành hình
và khe núi những chùm hoa rơi ngập.
Tiếng êm
Trong thị trấn ven biển, vào một đêm
có những đám mây sà thấp và mỏi mệt, em mở
cánh cửa - từ xa
những tiếng thì thầm tràn ra
Nào lắng nghe thật kĩ và nhìn rõ
âm thanh của sóng biển thở trên đất liền,
che chở trong đêm
những linh hồn đang lắng nghe
Cuối ngày dài biển rì rào câm bặt
mà giờ đây ngày tháng tự nhiên trôi
(phát tiếng kêu leng keng
như cốc rỗng trên kệ kính)
Và một lần nữa giữa sự im lặng mất ngủ
mở cánh cửa sổ, rộng hơn, rộng hơn,
và với biển cả em cô đơn
trong một thế giới mênh mông và điềm tĩnh
Không phải tiếng biển… vẫn là đêm
tôi nghe thấy một thanh âm vang dội khác:
tiếng êm ái của tổ quốc tôi
hơi thở và nhịp đập con tim đất nước.
NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH
dịch từ bản tiếng Anh