Chủ Nhật, 07/11/2021 05:08

Bác Hồ - Vị sứ giả văn hóa vì hòa bình!

Theo chúng tôi tìm hiểu thì Bác Hồ thành thạo 12 ngôn ngữ chính trên thế giới (có tài liệu nói Bác biết 29 thứ tiếng) nhưng ở khu vực Đông Nam Á, Bác nói được nhiều thứ tiếng như Thái, Tày, Nùng, Hmông... (NGUYỄN HÀ THANH)

. NGUYỄN HÀ THANH

 

Theo chúng tôi tìm hiểu thì Bác Hồ thành thạo 12 ngôn ngữ chính trên thế giới (có tài liệu nói Bác biết 29 thứ tiếng) nhưng ở khu vực Đông Nam Á, Bác nói được nhiều thứ tiếng như Thái, Tày, Nùng, Hmông... Nhiều người ngạc nhiên năm 1962 lần đầu Bác lên Sơn La mà lại nói được tiếng Thái. Thực ra Bác học tiếng Thái từ hồi ở Thái Lan. Trong bài Kiều bào ta ở Thái Lan luôn luôn hướng về Tổ quốc có câu: “Bác cũng phát nương làm xuốn như các anh em khác”[1]. “Xuốn”, âm tiếng Xiêm có nghĩa là vườn.

Lời chào mừng trong buổi đón tiếp vua Lào Xri Xavang Vátthana ở cuối bài có câu: “Việt - Lào Xamăckhi mặnnhưn”, có nghĩa là “Việt Lào đoàn kết muôn năm”[2]. Bài diễn văn trong buổi chiêu đãi vua Lào, Người cũng dùng: “Paxaxôn Việt - Lào Xamăckhi mặnnhưn”[3] có nghĩa là “Nhân dân Việt Lào đoàn kết muôn năm”. Trong Lời cảm ơn trong buổi chiêu đãi do Vua Lào tổ chức, Người cũng nhắc lại câu này: “…Chúc hoà bình thế giới. Paxaxôn Việt - Lào Xamăckhi mặnnhưn!”. Lời phát biểu trong buổi lễ tiễn Vua Lào, trước khi dừng lời cũng có một câu tiếng Lào: “Xavátđi” có nghĩa là “chào mạnh khoẻ”[4].

Đầu tháng 2-1958, Bác Hồ cùng đoàn đại biểu Đảng ta đi thăm Ấn Độ, đáp từ tại sân bay, sau khi đọc những khẩu hiệu hoà bình bằng tiếng Việt, cuối bài Người nói bằng tiếng Ấn:

“Panch Sheela !”[5].

“Panch Sheela” có nghĩa là 5 nguyên tắc chung sống hoà bình mà lúc bấy giờ một số nước châu Á đang theo đuổi. “Panch Sheela” lại được Người nhắc lại trong buổi tiệc do Tổng thống Ấn Độ chiêu đãi.

Trong Diễn văn tại cuộc mit tinh của nhân dân Niu Đêli, cuối bài Người nói bằng tiếng Ấn:

“Việt Nam - Hinđi bhai bhai!”[6].

“Việt Nam - Hinđi bhai bhai!” có nghĩa là Việt Nam - Ấn Độ là anh em! Trước khi rời Ấn sang thăm Miến Điện, trong một cuộc nói chuyện, Người nói:

“Hoà bình thế giới muôn năm!

Jai Hindi!”[7]. “Jai Hindi!”, tiếng Ấn có nghĩa là Ấn Độ muôn năm.

Tháng 6-1959, Tổng thống Inđônêxia Xucácnô sang thăm Việt Nam, Hồ Chí Minh thật khiêm tốn, chân tình nói: “ Về phần tôi, tôi hết sức vui mừng được gặp lại Bung Cácnô…”. Tiếng Inđônêxia, “bung” có nghĩa là “anh cả”. Cuối bài diễn văn chào mừng Tổng thống, Hồ Chí Minh nói:

“ Hiđúp Bung Cácnô!

Mớcđơca!”[8].

Tiếng Inđônêxia “Hiđúp” có nghĩa là muôn năm; “Mớcđơca” có nghĩa là “độc lập”. Trong diễn văn tiễn Tổng thống Xucácnô, Hồ Chí Minh nhờ Tổng thống: “Riêng Paman Hồ thì nhờ Bung Cácnô chuyển cho tất cả anh em, chị em Inđônêxia lời chúc phúc chân thành nhất,…”[9].

“Paman” có nghĩa là “bác”. Bác Hồ tự xưng mình là “bác”, không gọi là “Tổng thống” mà gọi “bung” (anh cả) để đưa cuộc tiễn đưa ngoại giao trở về sắc thái gia đình anh em bịn rịn lưu luyến.

Bác Hồ lấy “Truyện Kiều” làm phương tiện ngoại giao cực kỳ hiệu quả. Đây là bài học cho “ngoại giao văn hóa” hôm nay nên lấy văn chương làm cầu nối (Thực ra điều này được các Tổng thống Mỹ sử dụng rất tinh tế). Kiều cùng Từ Hải “Nửa năm hương lửa đang nồng” thì Từ Hải phải lên đường, Thuý Kiều ở lại ngóng về Từ: Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,/ Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm! (câu 2247, 2248). Hoàn cảnh này, tâm trạng này được Bác Hồ tập trong hoàn cảnh tiễn Tổng thống Xucácnô tại sân bay Gia Lâm:

“Thưa Tổng thống kính mến,

Thưa các vị và các bạn,

Thời gian Tổng thống lưu lại ở Việt Nam chúng tôi lần này quá ngắn ngủi! Nhưng vì Tổng thống đi vắng đã hơn hai tháng, nhân dân Inđônêxia nhớ nhung và chờ đợi lãnh tụ kính mến của họ, một ngày dài như ba thu. Thật là:

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Trông mòn con mắt, phương trời đăm đăm!

Vì vậy, nhân dân Việt Nam không tiện yêu cầu Tổng thống ở lại với chúng tôi lâu hơn nữa. Chúng tôi ước ao rằng lần sau đến thăm Việt Nam, Tổng thống sẽ ở lại lâu hơn gấp mấy lần này.

Bây giờ khó mà tả được tình quyến luyến của nhân dân Việt Nam đối với Bung Cácnô:

Nhớ nhung trong lúc chia tay,

Tấm lòng lưu luyến cùng bay theo Người.

Người về Tổ quốc xa khơi, chúc Người thắng lợi,

chúc Người bình an”[10].

“Cánh hồng” vẫn được giữ nguyên trong sắc thái văn háo Truyện Kiều nghĩa đen chỉ cánh chim hồng, một loài chim bay xa, yu dũng, nghĩa bóng chỉ bậc trượng phu, quân tử. Bác chỉ thay một chữ Đã trong Kiều bằng từ Trông để diễn tả tấm lòng mong chờ, trông ngóng từng giờ của nhân dân Inđônêxia nhớ nhung và chờ đợi lãnh tụ kính mến của họ. Thật là một sự ca ngợi kín đáo mà tinh tế!

Năm 1942 sang Trung Quốc công tác Người bị bọn phản động bắt giam vô cớ. Bài thơ Đường đời hiểm trở là một ngụ ngôn nói về sự bất công vô lý của xã hội Trung Quốc dưới chế độ họ Tưởng:

“Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!

Núi cao gặp hổ mà vô sự,

Đường phẳng gặp người bị tống lao”.

Bài thơ không chỉ cho thấy cục diện tình hình phức tạp của Trung Quốc lúc bấy giờ mà còn một ý này chăng: khi giới lãnh đạo Trung Quốc đi theo con đường phản động thì tình hữu nghị cũng sẽ như “Đường đời hiểm trở”vậy!? Phải chăng là Bác nói điều này một cách gián tiếp qua các quản ngục, cai tù, lính canh của họ (!?).

Bác Hồ nhiều lần lấy hình tượng ngụ ngôn “môi răng” để nói về quan hệ hai nước. Ngay từ năm 1940, cũng trên Cứu vong nhật báo (Trung Quốc) với bút danh Bình Sơn, Nguyễn Ái Quốc có bài thơ Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ, có nghĩa là: Cứu Trung Quốc là tự cứu mình, có mấy câu cuối: “Giặc Nhật tấn công cả thế giới/ Là kẻ thù chung cả nhân loại/ Mau đứng lên mà giúp Trung Hoa/ Anh chị em Việt Nam ta hỡi/ Ra sức giúp cho người Trung Quốc/ Trung - Việt khác nào môi với răng/ Nhớ rằng môi hở thì răng buốt/ Cứu Trung Quốc là tự cứu mình”.

Chúng tôi xin không phân tích bài thơ vì tự nó đã toát lên tinh thần Bốn phương vô sản đều là anh em, hơn nữa nước ta và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông. Đặt nước ta trong bối cảnh lúc bấy giờ (1940) còn là nước nô lệ lầm than, càng thấy tấm lòng hữu ái của Bác rộng lớn, sâu sắc đến nhường nào. Tháng 9-1945 Người nhắc lại hình tượng này: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta, mấy ngàn năm nay, huyết thống tương thông, chung nền văn hoá, trong lịch sử vẫn được gọi là hai nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi với răng che chở cho nhau”[11]. Người cho rằng ở “một đôi nơi Hoa kiều và dân Việt còn có đôi khi xích mích” là “cái thuốc độc ly gián của đế quốc chủ nghĩa”[12]. và nhắc nhở dân ta lấy tình hoà hiếu làm trọng, qua một ngụ ngôn: “Dân ta lúc này bị điêu đứng về những chuyện ấy, thì phải nhớ đến câu: muốn gánh được nặng, phải chịu được khó nhọc”[13].

Ngày 2-9-1945, lúc 19h, tức là chỉ vừa sau Lễ Mittinh lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam mới mấy tiếng đồng hồ, Người gửi thư cho Hoa kiều: “Tôi xin thay mặt Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam và toàn dân Việt Nam đưa bàn tay nồng nhiệt hoan nghênh anh em Hoa kiều sinh sống trên đất nước ta, mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết…không được vì những tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc”[14].

. Điều này cho thấy Bác Hồ hết sức chú ý tới tình hữu nghị hai nước Việt Trung, thể hiện một tầm nhìn không chỉ ở hiện tại mà nhìn về quá khứ và cả tương lai.

Về quan hệ với hai nước Miên Lào, Bác Hồ cũng dùng hình tượng “môi răng”: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v. mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn, hoàn toàn”[15]. Hình tượng “môi răng” mà Bác dùng là dựa trên thành ngữ: “Môi hở răng lạnh” nhắc nhở mọi người biết thương yêu nhau, đoàn kết. Bác đã khéo kết hợp sức biểu cảm từ bản thân mối quan hệ giữa môi và răng luôn che chở, bảo vệ cho nhau; đồng thời gợi người đọc nhớ về câu thành ngữ quen thuộc trên. Riêng với bạn Lào, Bác Hồ thể hiện tình cảm đặc biệt qua mấy câu thơ theo hình thức tập ca dao: Thương nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt- Lào, hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long. Đây là mấy câu thơ rút ra từ Lời phát biểu trong buổi lễ tiễn vua Lào ngày 13- 3- 1963 (Báo Nhân dân - số 3274, ngày 14-3-1963) thật chân tình, nó tựa vững chắc vào một bài ca dao về tình yêu của người Việt: Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/ Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu đèo cũng qua, nâng tình hữu nghị anh em Việt - Lào lên tầm biểu tượng vĩnh cửu qua cách sử dụng hình ảnh hai con sông Hồng Hà, Cửu Long muôn đời vẫn chảy qua hai nước. Quan niệm giúp bạn tức là giúp mình, quan niệm tình nghĩa thuỷ chung với bạn vốn đậm đà trong tính cách người Việt Thương người như­ thể thương thân và tinh thần nhân ái trong triết lý Khổng giáo phương Đông được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên một đỉnh cao mới.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ tư Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, phóng viên báo Praxa Thipatay (Thái Lan) phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề hoà bình trong khu vực. Người nói: “Việt Nam phải kháng chiến tranh lại thống nhất và độc lập thật sự đã, sau mới có thể bàn đến việc khác. Đức Khổng Tử có dạy rằng: Quốc trị, thiên hạ mới bình”[16].

Vì Việt Nam và Thái Lan gần gũi nhau về địa lý, văn hoá, cùng chịu ảnh hưởng của đạo Khổng nên Bác Hồ mượn lời Khổng Tử làm toát lên quan điểm không những của mình mà là của cả triết lý phương Đông: mỗi quốc gia hãy thật yên ổn đã thì tự nhiên thế giới sẽ hoà bình.

Bài học Bác để lại là muốn hiểu đời sống phải nhập thân vào đời sống, muốn chinh phục con người phải thấu hiểu hoàn cảnh sống của con người. Bác là hình ảnh một ông cụ già miền núi, rất miền núi: “Ông cụ bóc được vỏ củ sắn nào lại đưa Bác. Bác hơ cho khô đi, rồi mới vùi xuống tro nóng để nướng.

Nhìn Bác hơ củ sắn khô mà vẫn trắng, và khi vùi tro, sắn chín vàng rất đều, còn chúng tôi hơ củ nào cứ bị dính bụi củ ấy. Ông cụ cười bảo: “- Các đồng chí phải học cái ké bộ đội vớ! Trông cầm củ sắn là biết ngay người có ở núi hay không đấy”[17].

Và đây nữa, là hình ảnh của một Việt kiều xa quê tần tảo lam lũ, vượt qua cái khó khăn nơi đất khách quê người để kiếm sống. Ở Thái Lan, “cũng như mọi người, Thầu Chín gánh đôi thùng có nắp đựng quần áo, đồ dùng, một ống treo (thịt băm rang muối mặn) và 10 kg gạo. Lúc ngồi nghỉ, anh em thấy chân Thầu Chín đỏ bầm, rớm máu thì tỏ ra ái ngại. Nhưng Thầu Chín thản nhiên cười, miệng còn ngâm KiềuChinh phụ ngâm”[18]. Còn đây là hình ảnh một vị khách quý của nhân dân Ấn Độ. Tháng 2-1958 sang thăm Ấn Độ, “Theo phong tục, đại biểu các tầng lớp nhân dân Ấn Độ đều lần lượt choàng những dải hoa tươi lên cổ các vị khách quý để tỏ lòng kính trọng và hiếu khách. Nhiều vị khách nước ngoài trước phong tục này thường nhận hoa rồi đưa cho cán bộ lễ tân nhưng Bác Hồ đã nhận tất cả để cho từng người choàng những dải hoa lên cổ mình mà không gỡ ra. Khi Bác nhận tấm thảm len khá lớn do bà A-ru-na thay mặt nhân dân Thủ đô trao tặng. Tưởng rằng Bác chỉ nhận tượng trưng nhưng Bác nói: “Quà của tôi, tôi phải tự nhận lấy” và Bác vác tấm thảm đó lên vai. Người nói: “Tôi vác cả tình cảm nhân dân Ấn Độ trên vai”[19].

Thật kỳ lạ, những hình ảnh đó lại ở một con người. Không có sự hòa hợp nhập thân tuyệt vời vào các hoàn cảnh khác nhau, không thể có con người vĩ đại Hồ Chí Minh. Chúng tôi gọi đó là sự nhập vai của một nghệ sỹ tài năng – một sứ giả văn hóa vĩ đại!

N.H.T


[1] Hồ Chí Minh toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, 2002, tập 10, tr 24.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 11, tr 36.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 11, tr 41

[4] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 11, tr 45.

[5] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 9, tr 37.

[6] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 9, tr 42.

[7] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 9, tr 63.

[8] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 9, tr 465.

[9] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd. Tập 9, tr 479.

[10] Hồ Chí Minh toàn tập.Tập 9, tr 479.

[11] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 4, tr 5.

[12] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 4, tr 95.

[13] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 4, tr 73.

[14] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, NXB Chính trị Quốc gia, 2006, Tập 2, tr 290.

[15] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 6, tr 452.

[16] Hồ Chí Minh toàn tập. Sđd, tập 5, tr 676.

[17] Nguyễn Ngọc Châu (biên soạn) - Đưa Bác về Pắc Bó. Nxb Lao động Xã hội, 2007tr 192.

[18] Nhiều tác giả - Những chuyện vui và cảm động về Hồ Chủ tịch . Nxb Công an Nhân dân, 2000.tr 76.

[19] Trần Đương - Ánh mắt Bác Hồ. Nxb Thanh niên,1999 tr 104.