Thứ Hai, 30/07/2018 00:40

Biển trời đầm phá mênh mang

Người đàn bà choãi hai chân sau, nhúi đầu xuống, tay trái vẫn ôm chặt đứa con nhỏ giữ cho mũi mồm nó vẫn trồi trên mặt nước, tay phải khoát một nửa vòng tròn, rướn tới... Cùng lúc với nhịp lấy đà để bơi tiếp, chân chị bỗng chạm phải đất. (Truyện ngắn của HỒNG NHU)
truyen ngan hay tac gia tu chon

1011010HongNhuTôi sinh năm Nhâm Thân (1932), quê làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghiệp văn chương đến với tôi từ rất sớm, thời điểm năm 1948 khi còn tuổi thiếu niên, làm liên lạc cho bộ đội, tôi đã viết văn, làm thơ, viết cả nhạc nữa.
Cha tôi nguyên là một thầy khóa, am hiểu nhiều về văn hóa cổ, người đã gieo tình yêu văn chương cho tôi từ thời thơ bé. Những câu chuyện về đời sống của bà con đầm phá được cha kể là nguồn tư liệu quý hiếm để sau này, khi cầm bút viết, những câu chuyện ấy trong tôi tự thức dậy. Đó là các lễ hợp cẩn dưới nước, dâng thần đầm, nhập vạn chài… Đặc biệt, lễ hội dành cho người ăn mày diễn ra vào ngày mồng hai Tết tại chợ Cồn của dân làng Mỹ Lợi gợi cảm hứng cho tôi viết truyện ngắn Biển trời đầm phá mênh mang. Ngày nay, lễ hội đầy tính nhân văn này đã không còn nữa. Khu chợ Cồn ngày xưa giờ đã thành trường học...
 
Nhà văn HỒNG NHU
 
 . Truyện ngắn

1.
Người đàn bà choãi hai chân sau, nhúi đầu xuống, tay trái vẫn ôm chặt đứa con nhỏ giữ cho mũi mồm nó vẫn trồi trên mặt nước, tay phải khoát một nửa vòng tròn, rướn tới... Cùng lúc với nhịp lấy đà để bơi tiếp, chân chị bỗng chạm phải đất. Chị mừng rỡ kêu “ôi” một tiếng khẽ, đạp dấn chân kia xuống, đứng thẳng người dậy, lội... Nước ngang cổ, ngang ngực rồi ngang lưng quần... Thế là thoát, là đã sắp vào bờ, cái bờ mà gần suốt đêm chị vừa mong đợi lại vừa lo lắng không biết sẽ phải làm gì khi bước cái bước đầu tiên lên đó. Chị vỗ vỗ bàn tay ướt nhèm vào má đứa con gái nhỏ; cô bé lắc lắc đầu, ngọ nguậy cổ, làm nước trên người văng ra hai bên thành những tia mát lạnh vào lườn lưng bên trái chị. Chị mỉm cười lẩm bẩm: “Rõ là con nhà đầm phá!”. Vậy là hai mẹ con chị đã hơn một nửa đêm dầm mình trong nước. Chị thì không nói làm gì, đã bao năm sống trên mặt phá bao la, chị có thể lặn cả ngày dưới đáy đầm như ở trên cạn, chỉ ngại đứa con nhỏ mang theo. Khi quyết định bỏ trốn vào bờ, rời bỏ vĩnh viễn mạn thuyền, chị đã tính để con gái nhỏ ở lại. Song nó còn bú, lại có đứa con trai đầu đã lên năm ở lại với cha nó rồi. Nó sẽ lớn lên, sẽ thành một chàng trai đầm phá giỏi giang để tiếp nối cái nghề vạn chài truyền thống của cha ông nó. Đó là của quý nhất mà chị đã để lại cho chồng, trả cái tình nghĩa vợ chồng ăn ở với nhau lâu nay, mặc dù cái tình nghĩa đó lúc đầu chỉ là sự ép buộc. Thôi, tôi đành phụ anh, chắc anh cũng hiểu cho tôi, tôi còn cha mẹ, quê hương làng xóm nơi chôn nhau cắt rốn, đã bao năm rồi tôi chẳng biết ai còn ai mất. Cuộc đời tôi không phải là cuộc đời đầm phá xa lạ, hãi hùng này. Lạy Trời, lạy Phật, lạy ông Hà Bá, lạy bà Thủy Vương phù hộ cho vạn thuyền anh, phù hộ cho anh chóng lấy được vợ khác...

Chị vụt nhớ lại hoàn cảnh của mình. Đã lâu lắm rồi, chị gần như quên lãng, giờ đây hiện về mồn một trong đầu. Ngày đó, một buổi chiều tối, sau bao ngày lang thang kiếm ăn, cha mẹ dắt chị vào nghỉ ở cái lều tranh góc chợ bên đường. Bấy giờ là năm đói kém, làng quê chị ở bên bờ sông Hoàng Long đói xơ xác, bà con thất tán người lên tận rừng sâu, người xuống tới biển rộng để tìm nguồn sinh sống. Nhiều gia đình bồng bế nhau, bị gậy ra đi. Cứ đi, nơi nào có thể xin được là đi, không ai tính lấy đường về. Gia đình chị cũng trong tình cảnh bi thảm đó. Cứ đi... Nhắm hướng nam mà đi, nơi nào có chợ búa là đến, kiếm miếng cho vào bụng đỡ đói, không còn nhận biết ra phương hướng nữa. May mà ông trời còn có ngày có đêm, buổi sáng mặt trời mọc, buổi chiều mặt trời lặn. Cứ đi... đi... Cho đến ngày hôm đó. Buổi chiều chị được ăn một nắm xôi to dễ bằng quả dừa điếc và mấy con tôm rim, do nhà chủ nọ có kì cúng giỗ mà cha mẹ chị tình cờ dắt chị bước vào đúng ngõ. Đó gần như “bữa tiệc” cuối cùng, “bữa tiệc” chia tay mãi mãi của chị với những người ruột thịt của mình.

Đêm càng lúc càng sâu, càng vắng vẻ. Cả nhà chị chìm vào giấc ngủ say sưa trên nền lều chợ mát lạnh. Gió từ đầm xa hiu hiu thổi vào như ru, giấc ngủ thêm ngọt thêm muồi. Chị thấy mẹ nhẹ nhàng nâng đầu chị lên, đút cho chị ăn như hồi mới lên hai lên ba. Ôi mẹ, con đã no căng bụng rồi đây này! Mẹ nói cơm thương chứ ai thương, hãy cố mà ăn con ạ, no rồi cũng cứ ăn thêm, bù vào những lúc không có cả một cái dây khoai để nhai cho khỏi buồn cái chân răng. Mẹ ấn củ khoai luộc ép chị ăn thêm nữa. Củ khoai bùi quá, làm cổ họng chị đặc cứng, tắc nghẹn, muốn kêu mà không kêu được. Rồi bỗng mẹ buông tay. Chị thấy như được ai bồng bế, người nhẹ hẫng rồi bay đi, lượn lờ như con bướm trong vườn cải nhà chị hồi nào. Con bướm có đôi cánh lốm đốm vàng xanh cứ dập dềnh rồi chao chát, long bong, rồi phầm phập, phầm phập rất lạ. Con bướm chúi đầu xuống ao, hai cánh giãy run, cố cất lên nhưng cứ rũ xuống dần, lướt thướt trườn đi một cách tuyệt vọng...

Chị giật mình thức giấc, hoảng hốt ngồi nhổm dậy, hai tay bưng lấy mặt, chưa biết chuyện gì đã xảy ra vừa rồi.
- Đừng sợ! Đừng sợ nghe con!
Tiếng ồm ồm đùng đục của ai thế? Tiếng cha sao nghe lạ lùng! Mẹ, mẹ đâu rồi? Chị khẽ lách các ngón, nhìn qua kẽ tay. Trời ôi! Chị bỏ phắt hai tay xuống, rên rỉ, ngơ ngác, hãi hùng nhìn quanh. Hai người đàn ông, một già, một trẻ đang ngồi trước mặt chị. Dáng vóc họ cao lớn, vạm vỡ, có vẻ bặm trợn nhưng nét mặt thì hiền khô, trên môi anh chàng trẻ còn in một nụ cười nữa. Họ đều cởi trần, quần đùi, da nâu bóng...

- Trời hỡi! Đây là đâu thế này?
Họ không trả lời. Chị nhìn quanh, nhận biết mình đang ngồi trên một chiếc thuyền đã được neo lại giữa dòng, bập bềnh bập bềnh phồng lên xọp xuống theo hơi thở của sóng. Trên đầu là trời cao, chung quanh bốn bề là nước. Thăm thẳm... mịt mù...

Chị òa khóc. Hai người đàn ông im lặng. Họ không hề làm gì chị cả, cũng không dỗ chị, kệ cho chị khóc. Hình như họ cho là cần phải như thế. Ông già đưa mắt cho người con trai. Chị rú lên một tiếng. “Họ sắp làm thịt mình!”. Anh con trai đứng lên, im lặng chui vào khoang. Chị nhắm mắt lại nghĩ nhanh: “Mình tới số rồi, trời ơi là trời!”. Chị đợi một nhát dao hay một cú búa, hay một cái gì tương tự như thế. Có tiếng lẹt xẹt trước mặt chị. Chị mở mắt ra. Một bát cơm đầy tú hụ trên đặt một khúc cá kho khoanh tròn hình quả trứng to được đẩy tới.

- Ăn đi! Ăn đi kẻo đói, con! - Ông già lại ồm ồm lên tiếng, giọng trầm mà nghe nhẹ nhõm. Chị vụt hiểu tất cả. Chị đứng bật dậy, mặt ráo hoảnh, ương bướng:
- Các người bắt cóc tôi về đây làm gì, hả?

Ông già sắc mặt không hề thay đổi nhưng giọng điệu thì thay đổi, dỗ dành:
- Không làm chi đâu, con ơi! Bắt con về làm dâu thôi mà! Con sẽ là vợ thằng trai lão đó, con nhé?
Đưa hai tay chống nạnh, chị nhìn cha con ông già, mắt long sòng sọc:
- Các người có thả tôi ra không hả?

Chàng trai cười rất tươi, rủ rỉ:
- Không thả! Mà có thả, em biết đường nào mà đi, làm chi mà sống! Ở đây, trên trời dưới nước thế này, em có thấy không?
Tiếng “em” của chàng trai làm chị thoắt dịu lại:
- Tôi còn nhỏ, tôi không lấy anh đâu!

Chàng trai lại cười, nụ cười lần này thì như nụ cười của ông chủ, thỏa mãn và đầy tự tin:
- Thì tôi đợi em lớn đã mà! Có gấp gáp chi!

Chị gần như ngã ngồi xuống lòng thuyền, hai tay buông thõng, thở dài não ruột. Chị không muốn khóc nữa mà nước mắt cứ đầm đìa. Chị biết thế là cuộc đời chị đã được quyết định do những người xa lạ và hoang dã giữa vời phá bao la này. Chị đứng vụt, kêu xé lên một tiếng, nhào người xuống nước. Chàng trai nhanh như chim cắt kịp túm tay chị, lôi lại, đẩy vào trong khoang.
Bấy giờ, chị mới là một con bé mười ba tuổi...
 
2.
Gần như kiệt sức, chị nằm lăn ra bờ đầm hoang, mắt ngước nhìn lên bầu trời đang sền sệt như mầu trứng cá. Đứa con nhỏ đang quờ tay tìm vú. Chị ấp con vào người, xốc cho nó bò lên bụng. Con bé chẳng khó khăn gì để trườn một cái rồi ngoạm lấy núm vú mẹ. Chị nghe nhồn nhột, giật mình sực nhớ là mình trên để trần. Đàn bà vùng đầm phá chuyên sống trên mặt nước vẫn thường như vậy, không mấy khi mặc yếm áo, để khỏi vướng víu khi chài lưới cá tôm, trừ khi phải lên bờ đi chợ mua gạo, mua dầu... Chị tự trách mình lúc đêm gấp quá và cũng hoảng quá, quên khuấy mất. Vạn thuyền nhà chị ngày hôm đó trúng lớn mẻ lưới cá bầu. Người chồng tự thưởng một chầu rượu. Bạn nhậu là vợ và con trai. Thật ra chỉ một mình anh ta uống, vợ con chỉ ngồi cho vui mâm rượu mà thôi. Họ ngồi với nhau đến khuya thì anh chồng say lê lết, nằm xoài, ngáy như sấm. Chị dọn dẹp xong, nhìn chồng, nhìn nước, ý định trốn vụt đến. Thời cơ có một không hai đây rồi. Chị đã tự liệu sức mình, cái sức mà chồng chị không thể lường trước được, hoặc đã tin cậy nên không muốn lường. Không có người đàn bà nào, dù là đàn bà đẻ trên đầm phá, lại có thể bơi từ giữa phá vào bờ, xa có đến sáu bảy cây số.

Nằm nghỉ một lát lại sức, chị xốc con ngồi dậy, nhìn quanh để xác định phương hướng. Đây là trảng cát, vậy bên kia là biển, dọc sát biển là làng. Chị nhắm hướng trước mặt, chạy gằn. Chị cần tìm một cái gì để che thân. Đứa con gái đã bú no, ngủ ngặt nghẽo trên tay, hơi thở của bé phả âm ấm chỗ xương bả vai chị. Có tiếng gà gáy xa. Trời xem chừng đã hơi loang loãng, sắp sáng rồi. Chị chạy gấp thêm, nhắm cái vệt mờ mờ xám xám của xóm làng đằng xa băng tới. Đôi vú trần trẻ trung của chị nảy tưng tưng, tưng tưng. Trước mặt chị là một chiếc cầu và phía bên kia, chị đã nhìn rõ ánh đèn le lói trong ngôi nhà ai đó khuất lấp qua một khu vườn rậm rạp cau dừa. Chị đoán sau xóm này chắc là chợ làng. Ở cái chợ này, ngày mai chị sẽ kiếm vài thứ cần thiết và đi tiếp, đi tiếp. Lần hồi, hỏi han... thế nào cũng có ngày chị sẽ về đến quê hương làng xóm, gặp lại cha mẹ, bà con xóm giềng của chị. Bố mẹ chị ngày đó mất chị, chắc họ cũng đã quay về, lòng dạ đâu mà đi tiếp nữa, chị chắc chắn như thế...

Một vật ngáng làm chị bổ ngửa người ra sau, suýt nữa thì hất cả đứa con gái xuống đất. Chị định thần nhìn. Thì ra mải suy nghĩ chị đã không kịp thấy những thanh chắn cửa một khu vườn. May mà chúng chỉ là những thanh tre tròn, không có gai mấu gì. Vừa lúc chị đứng dậy phủi bụi cho con nhỏ thì một giọng đàn bà cất lên thong thả, thản nhiên:
- Ai đó? Đi đâu sớm thế?

Chị luống cuống chưa biết nói gì. Từ trong nhà, người vừa hỏi đã xách cây đèn bão nhanh nhẹn đi ra. Chị co rúm người lại, ngồi nép vào bóng tối của bụi chuối. Ánh đèn đã soi rõ mặt chị. Người vừa hỏi là một bà già chừng sáu mươi. Thấy hai mẹ con chị trần như nhộng, lại đang run lên vì sợ hãi, khuôn mặt còn quá trẻ không có vẻ gì dối cả, bà già bỗng động lòng hỏi:
- Chị ở đâu đến đây? Ai đuổi bắt chị hả? - Bà nhìn đứa bé gái bụ bẫm - Con của chị đó à?
- Dạ thưa bà... thưa bà...
- Chị đừng sợ, nói đi nào! À mà khoan, hãy vào nhà cái đã. Cháu nhỏ đã lạnh run cầm cập lên rồi kìa. Vào nhà, tôi lấy áo cho mà mặc!
Linh tính cho biết rằng chị đã gặp may. Chị như bị hút theo bà già. Bà mở toang cánh cửa đang khép hờ. Đặt cây đèn bão xuống góc nhà, bà vặn to ngọn đèn tọa đăng trên sập, ánh sáng lan tỏa. Bà đi vào gian trong. Chốc sau bà mang ra một mớ áo quần, nói như ra lệnh:
- Chị mặc vào ngay kẻo lạnh. Ra sau hè mà thay!

Chị bàng hoàng như trong giấc mộng, rùng mình như đang sống trước cảnh bụt hiện. Bà già đứng đó, mỉm nụ cười thương cảm nhìn hai mẹ con chị giờ đã áo quần tinh tươm, mái tóc đốm bạc của bà phơ phất, phơ phất...
Tự bao giờ, có lẽ lúc mẹ con chị thay áo sau hè, một mâm cơm có cá kho, dưa chua đã đặt bên phản dưới. Bà già đến ngồi lên sập, chân co chân duỗi, nhai trầu chóp chép:
- Cơm khi tối còn lại đó, nguội cả rồi, nhưng tạm ăn đi cho đỡ đói. Ăn có sữa cho cháu nó bú. Chuyện chi nói sau. Trời đã sắp sáng rồi đó!

Bây giờ chị mới thấy bụng cồn cào ghê gớm. Con bé gần như suốt đêm ngâm mình dưới nước, giờ được mặc ấm liền chuồi ra khỏi tay chị lăn ra ngủ, đầu ngoẹo về một bên, hai tay khuỳnh vuông góc, hai chân chạng ra, ống hơi khép vào, nom như con ếch đang bơi...
- Cha cha. Con nhỏ ngủ dễ ghét chưa? - Bà già nắc nỏm - Được mấy tháng rồi?
- Dạ thưa bà, cháu được chín tháng rồi ạ!

Chị nhìn bà. Trong thoáng chốc, chị tưởng trước mắt mình là mẹ. Mà phải, giờ đây nếu mẹ còn sống, chắc mẹ cũng bằng ngần ấy tuổi như bà. Ôi mẹ ôi! Nước mắt chị lã chã rơi xuống bát cơm. Chị vừa ăn vừa kể lại...
Trời sáng rõ lúc nào không ai hay. Bà già khẽ thở dài, thõng hai chân xuống quờ tìm dép, ngoảnh mặt vào gian trong, gọi to:
- Quý! Quý! Dậy con! Dậy rửa mặt, ăn uống rồi đi học kẻo trễ giờ con!

Chị luống cuống ngại ngùng đứng lên. Bà già nói:
- Chị cứ nằm ngủ đi một chặp cho lại sức. Con Quý là đứa con gái út của tôi, đang học lớp nhì trường tổng. Nhà chỉ có hai mẹ con. Có thằng anh nó nữa, nhưng vắng nhà, đang học trên tỉnh, thỉnh thoảng mới về thăm. Thôi, nằm ngủ đi!
- Dạ thưa bà, cháu không buồn ngủ. Cám ơn bà đã giúp đỡ mẹ con cháu. Giờ cháu xin phép bà cho mẹ con cháu đi...
- Đi đâu?
- Dạ thưa, đi...

Bà già nhíu trán, im lặng một lúc rồi thủ thỉ:
- Ông nhà tôi mới mất năm ngoái, nhà giờ đây neo đơn lắm, vắng vẻ lắm. Tình cảnh của chị nghe thật thảm thương, đường ra bắc lại xa xăm mù mịt, mẹ con chị thân gái dặm trường, làm sao đi tới nơi về tới chốn cho được yên bình. Tôi nói thế này coi chị nghe có được không: giờ mẹ con chị cứ ở lại đây với tôi, giúp tôi coi ngó việc trong nhà ngoài vườn, chờ lúc nào thuận tiện, chắc ăn, để xem đường sá xe đò ra sao đã rồi hãy đi. Tôi coi chị như con, bé gái nhỏ như cháu...

Chị ngẩn người, nghe có cái gì chẹn ngang cổ họng, cứ nghẹn ngào nhìn chăm chắm vào bà già mà không nói được câu nào. Không ngờ câu chuyện lại xoay sang cái hướng này, cái hướng mà chị chưa bao giờ nghĩ tới. Số phận của chị ông trời đã định như thế này chăng? Ôi bà ôi...
 
3.
Truyến về nhà khi trời vừa chạng vạng. Anh chuyền va li qua tay trái, lấy tay phải nhẹ nhàng đẩy các ống tre then cài vườn, bước vào.
Trời vừa mưa giông lúc chiều, những giọt nước còn đọng trên các sợi dây thép chăng làm dây phơi giăng hàng long lanh như những cây cườm.

Truyến nhìn quanh, bỗng cảm thấy có điều gì lạ vương vất đâu đây. Những dệ lan tóc tiên hai bên sân dường như được vun vén lại, cả những sợi cỏ râu mèo mọc len vào các gốc của chúng cũng được nhổ sạch sẽ. Bờ chè tàu làm hàng rào ngăn cách nhà với vườn cũng được cắt xén bằng bặn và phẳng phiu như có thể nằm lên trên được. Cái lu đựng nước đầu hè kia hình như cũng được bắc thêm một chiếc máng nhỏ bằng những chiếc mo cau chằm rất khéo đặt vát vào miệng, để hứng được nhiều nước mưa từ hàng giọt gianh chảy xuống. Còn đằng này, cạnh cửa sổ nơi anh vẫn kê chiếc bàn ngồi học thì mọc lên ở đó từ bao giờ một khóm dạ hương đang kì lấm tấm...

Một giọng hát khe khẽ cất lên khiến Truyến giật mình:
Ờ... hờ hơ... ngó lên hòm kẽm đá dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
Ơ... hờ... hờ...

Anh lắng nghe và lấy làm lạ rằng sao cô em gái của anh mới đó mà đã hát được giọng người lớn và đổi thay âm sắc đến thế. Anh e hèm một tiếng, cất giọng gọi:
- Mẹ ơi!
Tiếng hát ngưng bặt. Mẹ anh bước ra, tay bồng đứa con gái nhỏ:
- Con đã về đó hả Truyến? Nghỉ hè rồi ư?
- Dạ. Ủa cháu bé con ai thế mẹ?
- Ờ ờ - Bà mẹ vỗ vỗ vào má đứa bé, nựng - Cháu bà đây mà! Cháu ngoại cưng của bà đây!

Truyến đặt va li xuống sập, trố mắt ngạc nhiên nhìn mẹ, nhưng lại hỏi chuyện khác:
- Quý đi đâu hở mẹ?
- Nó đi qua chơi với con bạn nó bên xóm. Nói để mượn sách đọc, dặn nhà đừng chờ cơm.
- Khi nãy ai hát thế mẹ?

Bà mẹ gọi với xuống nhà dưới:
- Đào ơi! Lên đây! Anh con đã về này!
Một khuôn mặt hiện ra cùng với vòng tay lễ phép khoanh lại trước bụng:
- Dạ thưa cậu. Cậu mới về nghỉ hè!

Người con gái da ngăm ngăm, vẻ mặn mà in rõ trên cánh môi hơi dầy và đôi mắt mở ra tròn to mầu nâu cháy vừa chân chất lại vừa như chứa đựng điều gì bí ẩn, làm Truyến bỗng cảm thấy nửa như yên ổn nửa như hoang mang. Anh không biết nói gì, chỉ gật đầu nhẹ để đáp lễ, nhìn mẹ chờ đợi sự giải thích.
Bà mẹ mỉm cười:
- Em Đào là người ngoài Bắc, lỡ vận sa cơ, mẹ mới nhận làm con nuôi hồi đầu năm. Thôi nói chuyện sau, bây giờ xuống dọn ăn cơm cái đã!

Đào xuống bếp. Lát sau cô bưng mâm cơm lên:
- Mời mẹ và cậu xơi cơm! Con đã để phần cho cô Quý rồi ạ!
- Ngồi đây ăn luôn đi con. Cậu, cậu cái gì. Gọi bằng anh, nghe chưa?
- Dạ. Xin phép mẹ, con còn cháu nhỏ, sợ nó quấy. Để con chờ chút, ăn sau cùng cô Quý cũng được ạ!
Truyến đã rửa ráy, thay quần áo xong, đi ra.
Hai mẹ con ngồi vào mâm.

Suốt từ lúc về nhà đến giờ. Truyến không sao xua đuổi được cái cảm giác lạ lùng vừa thanh thản lại vừa phấp phỏng. Người thiếu phụ trẻ nọ có mặt trong nhà anh mà mẹ anh - qua lời kể lại cùng với thái độ của bà - đã như là một sự hiển nhiên, đã xảy ra rồi, dù anh có muốn hay không cũng vậy. Từ bé đến giờ, và có lẽ mãi mãi về sau - chừng nào mẹ anh còn sống - anh vẫn có thói quen nhìn nhận những việc làm của mẹ đều xác đáng, đều như là của chính mình, phải vậy chứ không thể khác. Vậy thì điều gì sẽ xảy ra, ít nhất là đối với anh, trong kì nghỉ hè này?

Truyến hình dung lại mọi sự việc. Anh không thể nào tưởng tượng cô gái mới hai mươi mốt tuổi nọ đã là mẹ của hai đứa con, là vợ của dân chài đầm phá mà người trong vùng anh thường gọi họ một cách vừa sợ hãi vừa khinh khi là “bọn mọi đầm”. Dĩ nhiên, gia đình anh là gia đình nho học, biết tôn trọng và thương yêu con người; anh lại là dân tây học, anh không bao giờ chấp nhận cách đánh giá đó. Trường hợp này, trường hợp Đào, liệu bà con hàng xóm có nghĩ rằng mẹ anh đã mua chuộc người con gái vạn đầm kia để biến cô ta thành người làm công không? Điều này khó xảy ra vì chuyện chạy trốn của cô không một ai hay biết. Và tấm lòng nhân hậu của mẹ anh, của gia đình anh, thì không ai trong làng nghi ngờ. Rồi về phần cô gái, một ngày nào đó phải ra đi, lúc bấy giờ tình cảm giữa cô và những người trong gia đình anh đã sâu nặng, liệu mọi người trong cuộc có đủ sức để thu xếp làm sao cho trọn nghĩa vẹn tình.

Bao nhiêu ý nghĩ dồn dập làm Truyến trằn trọc, không sao ngủ được. Cô em út đi chơi với bạn học xóm bên về khuya, đang rúc rích chuyện gì đó với mẹ con Đào nhà dưới càng làm cho lòng anh thêm xốn xang, bứt rứt. Anh ngồi dậy, đi ra vườn. Mảnh trăng non thượng tuần lai láng, trải một lớp ánh sáng như màng tơ màu vàng chanh trên cây lá...
 
4.
Ngày tháng qua nhanh.
Truyến trở lại thành phố với những dự cảm ngọt ngào êm ái. Chỉ còn năm học cuối cùng nữa thôi, anh sẽ tốt nghiệp tú tài toàn phần.
Ba tháng hè tưởng như dài hóa ra quá ngắn. Khác trước, kì này Truyến không nhấp nhổm về ngày lên trường sớm với bạn bè, với đèn sách. Anh cũng tự hỏi lòng mình vì sao. Câu trả lời vừa mơ hồ vừa rõ rệt thoáng qua óc làm anh mỉm cười bâng quơ. Anh bước lên đúng lúc đò đã khẳm. Người lái nhẹ nhàng xô đò ra, nhảy lên. Gọi là đò ngang nhưng dòng sông ở đây rộng ngút mắt. Đó chỉ là một trong những nơi co thắt lại của cả một dải đầm phá chạy dài từ cửa Thuận đến cửa Tư có đến dăm chục cây số, và chiều rộng của nó thì có nơi phình ra mênh mông như biển cả, chẳng biết nơi đâu là bến là bờ. Đây là vùng giang sơn riêng của các vạn thuyền quanh năm sống trên mặt nước, với bao nhiêu chuyện huyền bí, bao nhiêu tập tục lạ lùng của người dân quanh năm ở trần ở lỗ như con cá con tôm, kể cả đàn bà con gái. Đây cũng là nơi mà từ xa xưa đã là nỗi kinh hãi cho những ai mới lần đầu đặt chân tới hay phải vượt qua.
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.

 
Câu ca dao đó kể từ lúc xuất hiện cho đến bây giờ và mãi về sau luôn luôn được chắp nối phần tiếp theo cho hợp với tình cảnh từng lúc từng nơi, từng con người từng số phận...

Ngồi trên đò, Truyến miên man suy nghĩ. Chuyện dân đầm phá bắt vợ, anh đã từng nghe kể. Tuy chưa được nhỡn tiền, nhưng cũng như bao nhiêu người khác sống trên cạn, anh tin là có thật. Bởi nếu không, thì trai vạn đầm chỉ có thể chết già mà thôi, gái trên bờ không ai dám lấy họ cả. Rằng ban ngày họ rời thuyền, lảng vảng các nơi chợ búa quán lều, dò la đàn bà con gái thất cơ lỡ vận, ăn mày, ăn xin từ nơi xa đến. Rằng nhiều khi họ giả làm người ăn xin để dễ nhập bọn, dễ hòa đồng. Rồi đêm tới họ vác bao tải đi, nhét một củ khoai hoặc một cục cơm vào mồm cô gái định bắt, trùm bao vác về, chèo thuyền ra giữa vời phá bao la. Người bị bắt bất kể lớn hay nhỏ đều trở thành vợ của họ; còn nhỏ thì họ nuôi cho lớn, dạy cho thành người đầm phá chính hiệu, đợi đến ngày nở nang có thể làm vợ được...

Người dân đầm phá tin rằng Hà Bá đã cho phép họ làm như vậy, cho họ được cái quyền tạo ra người nối dõi, gìn giữ nghề truyền thống của cha ông họ, tiếp nối dòng máu riêng của dân đầm phá.

Truyến thoáng mỉm cười nhớ lại. Một hôm đang ngồi đọc sách Truyến thấy Đào cứ lấp ló, thập thò, chốc lại vén màn nhìn ra, chốc lại đi vòng ra sau cửa sổ cúi xuống làm cái gì đó như nhổ một cây cỏ chẳng hạn, nhưng mắt thì cứ liếc trộm anh. Anh thấy hơi khó chịu, gấp sách lại, cầm bút viết vài câu bâng quơ, bất chợt, gọi là cho có việc làm và cũng để có một khoảng lặng trong đầu nghĩ xem chuyện gì đang đến đây. Một cái chạm lướt đằng sau vai làm Truyến hơi giật mình quay lại, cái chạm mà anh biết chắc không phải là bàn tay mà chỉ là tà áo hoặc cái gì nhẹ mềm tương tự. Anh hơi quắc mắt:
- Em làm gì vậy hả Đào?

Đào như bị bắt quả tang, đứng khựng, hơi cúi mặt, đôi má bừng đỏ, tay mân mê chéo áo.
- Dạ... Dạ thưa!
- Chuyện gì thế, em nói đi!
Đào ngẩng đầu lên, nói một hơi như sợ chậm một giây nữa thì không nói nổi:
- Anh Truyến! Anh dạy em học chữ với. Đời em khổ cực dốt nát lắm anh ơi!

Truyến như bị bước hụt. Anh nhìn cô gái đứng trước mặt như một kẻ chịu tội, vẻ khẩn cầu van xin toát ra từ dáng điệu chưa quá tuổi ngây thơ làm anh cảm thương quá đỗi. Đã hơn một tháng kể từ ngày gặp gỡ, đây là lần đầu tiên anh nhìn kĩ cô em nuôi. Trời! Thời gian nhiệm mầu vậy ư? Da dẻ cô không còn ngăm ngăm nữa mà nó mịn màng hẳn lên, cái mầu hồng pha chút nâu thoáng làm cho khuôn mặt có những đường nét hơi đầy đầy của má và môi bỗng trở nên sang trọng một cách xa vời. Bộ quần áo mà mẹ anh sắm cho cô bằng lụa mầu trái cây ôm khít lấy tấm thân với bờ vai tròn trịa và bộ ngực thiếu phụ, thì rõ ràng thời gian và cuộc sống bao năm chèo kéo trên mặt đầm với một ông chồng và đứa con, chưa hề chạm tới được.

Truyến hơi sững sờ, giọng dịu hẳn:
- Em muốn học chữ à? Em không hổ ngươi đấy chứ, Đào?
- Dạ không! Anh dạy cho em nhé, anh...?
- Vậy thì được. Ngồi xuống đây! Nhưng trưa nay mẹ về, em phải thưa lại với mẹ và xin phép mẹ.
- Dạ.

Đào sáng dạ một cách kì lạ. Gần hai tháng hè, Truyến đã biến Đào thành người đọc thông viết thạo, biết làm các phép tính thuần thục. Bây giờ thì Đào có thể đọc truyện cho mẹ nghe mỗi khi rảnh rỗi, các cuốn truyện ấy chất một rương đầy của Truyến gom góp từ hồi còn học tiểu học ở trường tổng. Những ngày chưa lên tỉnh học, công việc ấy là của Truyến. Giờ đây Đào thay thế...
 
5.

Ba năm sau khi Đào bị bắt về vạn thuyền.
Cô bé ngày nào còn đuồn đuỗn như con cá kìm nay đã trở thành một thiếu nữ dậy thì, đầy đặn và mỡ màng như con cá đối.
Ông già chăm bẵm Đào chả khác gì con đẻ. Vạn thuyền không phải lúc nào cũng đầy đủ, có ngày kiếm được mớ cá, mớ tôm để đổi lấy gạo, củi cũng cực nhọc vất vả. Song ông già không bao giờ để cô con dâu tương lai phải thiếu đói. Mọi thứ ngon vật hiếm của đầm phá, vạn khác không kiếm ra thì vạn ông vẫn tìm được. Cá đìa hoa thịt dẻo bùi như hoài sơn tươi, thơm như trầm. Tôm sú rằn con nần nẫn bằng cổ tay, ăn một con no suốt buổi. Cá buôi lườn béo như thịt mỡ, béo mà không ngán, bụng no rồi mà miệng vẫn thèm... Tất cả những thứ đó, ông già không bao giờ kho nấu, hoặc chiên rán lôi thôi, mà bắt dưới đầm lên đang giãy đành đạch, liền thả vào nồi nước sôi sẵn trên bếp. Muối ớt là thức chấm duy nhất. Cái món nước luộc cá tôm tươi rói đó ngọt lừ, thơm lừng, bổ hết chỗ nói, húp một bát, người đang sốt gây gây lập tức tỉnh ra, nhẹ tênh. Ông già nói những thứ này là của Thần Phá ban phát, thần diệu hơn cả thuốc bổ. Ông già ép cô con dâu nhỏ ăn ngày ngày.

 
dao quoc huy
Minh họa: Đào Quốc Huy

Đào mười sáu đã nở nang gấp mấy con gái cùng lứa trên bộ, đôi vú suốt ngày để trần rám mầu bồ quân, cứng căng trên ngực, hai cái núm hồng hồng cứ chóc lên như thách thức cả trời đất, sông đầm.

Anh con trai ông suốt ba năm không lúc nào tỏ ra thô lỗ với cô gái, bỗng một hôm nhìn xoáy vào ngực cô, anh ta chịu không nổi, cứ đấm thụi tay, chân vào ván thuyền huỳnh huỵch, côm cốp. Anh ta như bị lửa đốt toàn thân, rừng rực cháy cả tim phổi gan phèo.

Ông già nom thấy, hô:
- Được rồi! Bày lễ cúng Bà Thủy!
Nghe lệnh cha, người con trai hú lên một tiếng sung sướng.

Lễ hợp cẩn lập tức được tiến hành. Một thau nước có hai con cá được bưng ra, một chai rượu đặt cạnh. Ông già bày bát hương đầu mũi thuyền, chọn hai cây hương to và một nạm hương nhỏ. Đó là tượng trưng cho hai vợ chồng và một đàn con. Thắp hương khấn vái xong, ông già lại hô:
- Xuống đầm!

Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút thiêng liêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước...

Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi. Thế là kết thúc buổi tân hôn.
Ông già nhìn con trai và con dâu từ dưới đầm lên, ướt dầm dề. Cô con dâu từ nỗi kinh hoàng ban đầu giờ đã hết sợ. Cô xấu hổ, một tay che, một chân khoèo vội chiếc quần mặc vào. Còn anh con trai thì rạng rỡ, nước từ tóc tai chảy tong tong xuống ướt cả một vạt ván thuyền, mặt mày cứ đờ đẫn ra.

Ông già gật gật đầu mãn nguyện. Ông vớ lấy chai rượu cúng, ngửa cổ dốc ừng ực. Hết chai, ông nằm xoài ra sạp.
Và từ đó, ông nằm luôn.
Trước khi mất, ông gọi đôi vợ chồng đến:
- Cha đã già lắm rồi, việc đánh bủa trên đầm cũng đã hết hơi, chết là được! Hai con phải lo mà làm ăn, sinh con đẻ cái, gìn giữ vạn thuyền, thờ cúng Thần Phá cho phải, cho đúng, nghe!

Hai vợ chồng chôn cất cha già tử tế. Người chồng trở thành chủ vạn thuyền từ đó. Anh đã ngoài ba mươi nhưng sức vóc lực lưỡng, chài lưới bơi lặn có tiếng trong vùng. Và cũng như cha, anh không chịu thua bất cứ người đàn ông đầm phá nào. Anh hiền như sợi rong đầm, chiều cô vợ trẻ như chiều vong. Đẻ xong thằng con trai đầu, anh nói với Đào:
- Em đẻ tiếp mấy thằng nữa, nghe!

Đào nguýt:
- Đẻ nhiều không đủ sức, rồi ốm đau bão gió, một bầy con lộn chộn như cua rạm, một mình anh chài lưới, nuôi sao nổi?
Anh chồng toe toét:
- Tôi nuôi được! Em chớ lo. Tôi khỏe như ông voi, tôi đánh bắt như con rái mà!
- Không được! Giờ em mới sinh, con còn non, anh không được...! Khi nào em bảo, anh mới...
- Ờ ờ phải! Thôi, tôi nghe em rồi. Đừng buồn đừng lo nghe, em!
 
6.
Chợ Cồn là một khoanh cát rộng, bụi cây lúp xúp, mô đất rải rác. Gọi là chợ nhưng mỗi năm chỉ họp một lần vào ngày mồng hai Tết. Những người được đến chợ, ngoài ăn mày, không được ai đến đó. Bởi vậy, dân làng gọi đó là ngày “lễ hội ăn mày” một cách trịnh trọng. Bất cứ ăn mày trong vùng hay từ đâu đến đều được dự lễ hội. Ai đến trước dự trước, ai đến sau dự sau, không ai phải chờ ai. Nhưng thường không ai đến sớm hơn hoặc muộn hơn giờ quy định. Đó là giờ Thìn. Thìn là rồng, dân làng tin rằng chọn giờ đó sẽ đem lại may mắn, cầu được ước thấy cho những người nghèo đói bất hạnh, phải lâm vào cảnh ăn mày ăn xin.

Từ tinh sương, các gia chủ trong làng mỗi nhà một mâm cỗ, to nhỏ tùy theo hoàn cảnh và lòng thiện của từng nhà, bưng ra bày ở chợ Cồn, để ở đấy và về. Kèm theo mâm cỗ là những vật chúc phước khác - cũng tùy ý tùy tâm từng nhà - như pháo, câu đối viết trên giấy hồng điều, bộ bài thẻ ghi phúc lộc thọ hoặc phú quý an,.. Ăn mày tứ xứ tối mồng một đã kéo về, tụ tập quanh chợ Cồn, nhưng chưa ai được vào, phải đợi giờ hành lễ. Hiệu lệnh bắt đầu do chủ lễ hội gióng lên. Chủ lễ do dân làng cử ra hàng năm, thường là một cụ già.

Chủ lễ tay cầm chiêng, chiếc dùi đầu tròn bọc vải đỏ.
- Ù... ù... ù... bù rù... bù rù… bù rù…
Một hồi chín tiếng chiêng vừa dứt. Lễ hội bắt đầu. Mọi ăn mày vào mâm. Muốn ăn gì thì ăn, muốn ngồi mâm nào cũng được, vừa ăn vừa hò hát bất cứ bài gì, câu gì mình thích. Lạ một điều là trong suốt quá trình lễ hội, những người ăn mày, già, trẻ, con nít... đều từ tốn không hề tranh ăn cướp uống, đàng hoàng và đĩnh đạc. Rồi đốt pháo, rồi khoác lên mình nhau những vật cầu may đầu năm mà dân làng đã dành cho họ, rồi chúc tụng nhau mong cho nhau được mạnh khỏe, được mau chóng thoát khỏi cảnh đầu đường xó chợ, sống có cửa có nhà, có cái ăn cái để... Người lớn thì vậy còn trẻ con thì tụ tập một góc, chơi nhảy lò cò, kéo co, chồng búp chồng bông, tập tầm vông tay không tay có... Những trò chơi dân dã, bình thường mà bất cứ trẻ con nào cũng có quyền được chơi...

Chờ cho người ăn mày cuối cùng no nê rời khỏi bãi chợ Cồn, chủ lễ mới gióng một hồi chiêng báo hiệu tan hội. Lúc bấy giờ, các gia chủ trong làng mới ra dọn dẹp mâm bát của mình mang về.

Từ tối mồng một, gia đình mẹ Truyến - người làng đều quen gọi là bà Hương, theo chức sắc của chồng bà - đã sửa soạn cho mâm cỗ lễ. Bà sai Đào và Quý sắp sửa mọi thứ để gánh ra chợ Cồn. Là gia đình vào loại vai vế, giàu có, năm nào cỗ ăn mày của bà cũng to nhất nhì làng. Chợ Cồn cách vườn sau nhà bà không xa, đứng ở cuối vườn, có thể thấy khá rõ người đi lại, ăn uống, vui chơi.

Sau khi gánh cỗ ra bày biện vào mâm xong, hai chị em Đào, Quý về nhà. Nghe chiêng gióng. Đào rủ Quý ra vườn sau.
Lần đầu tiên trong đời thấy quang cảnh lễ hội ăn mày diễn ra, lòng Đào chợt bừng lên một cảm giác khó tả, bâng khuâng, buồn nhớ, thương tiếc... Những hồi niệm gần xa hiện về trong đầu cô, cái ngày rời làng quê cha mẹ con cái dắt díu nhau bị gậy ra đi, cái đêm hãi hùng giữa mênh mông đầm phá, rồi lớn lên theo sông nước, mặn ngọt theo thủy triều, rồi lễ cúng Thần Đầm, hợp hôn dưới nước với người chồng vừa như bắt buộc vừa như tự nguyện, rồi sinh nở, rồi thật sự gắn bó với phá, tưởng như không thể di dời... Vậy mà... Ôi cái đêm bồng con bơi vượt phá, vừa liều lĩnh vừa hi vọng, rồi lên bờ gặp được bà Hương, rồi cuộc đời bỗng rẽ ngoặt, thực mà hư ảo, đời như tiên, nào mẹ nào em gái nào anh trai, con nuôi mà chẳng khác chi ruột rà, chẳng máu mủ mà còn hơn máu mủ...

Đang miên man thả lòng theo dĩ vãng, Đào bỗng giật thót. Bóng một người ăn mày dắt theo đứa con trai đang lách đám đông đi vào giữa bãi hội. Anh ta đội chiếc nón cời, đóng khố lá tọa trước bụng, chiếc bao gai đã rách mướp quàng trên người, tay chống chiếc gậy cong sần sùi. Trời, cái lưng khòm khòm như lưng rùa khi đi thì không thể lẫn được, còn ai vào đó nữa trời. Thằng con trai như có lớn hơn một chút, trần truồng, nhem nhuốc đang nắm tay cha vừa đi vừa ngó nhìn đây đó. Không giống với những đứa trẻ con khác, nó không hề nhìn vào các mâm cỗ mà lại lia đôi mắt von vót hình đuôi cá chình xoi mói vào mặt người này, người nọ như thể đang tìm kiếm cái chi.

Đào ôm ngực, một mũi kim nhọn như đang ngọ nguậy trong tim, cô bước vào nhà, lòng rung lên dữ dội.
- Chị Đào, chị làm sao vậy? - Quý gọi giật.
- Không sao cả, chị hơi nhức đầu. Quý cứ ở đó xem, chị vào lấy dầu xức, chốc sẽ ra!
Đào loạng choạng như người say sóng. Bước thấp bước cao, cô vội vàng nhào tới ôm chập lấy đứa con gái đang nằm chơi trên sập với bà, bế vào buồng trong. Bà Hương ngơ ngác:
- Có chuyện gì vậy con?
- Dạ không có chi. Con hơi nhức đầu chóng mặt một tí thôi!

Trong lúc bà Hương như linh tính mách bảo, bước vội ra góc vườn sau thì trong buồng Đào nằm vật ra, nước mắt đầm đìa mặt gối. Cô ư ử rên: “Con ơi! Anh ơi!... Trời xui đất khiến thế nào mà cha con giả làm ăn mày lần mò được đến đây? Con ơi! Con nhớ mẹ, trách mẹ lắm phải không? Mẹ lầm lỗi rồi mẹ nỡ bỏ con mà đi, trời phật ôi... Trên mặt đầm phá kia, mẹ đã qua bao nhiêu cay đắng ngọt bùi, bao nhiêu nước mắt mẹ đã đổ xuống, bao nhiêu nụ cười mẹ đã vớt lên, vậy mà mẹ đành đoạn, mẹ nhấn chìm... Thuyền đâu rồi, chèo lưới đâu rồi, sóng nước đâu rồi... Anh ơi! Mẹ Hương ơi! Em Quý ơi, anh Truyến ơi, em biết làm sao bây giờ, sao anh không về bảo cho em biết với...?”
Đào quằn quại, giằng xé, nỗi niềm rối như tơ vò. Cô nằm liệt giường mấy ngày sau đó.
 
7.
Người già thường yêu trẻ con. Con bé gái của Đào quả đã làm cho bà Hương thỏa mãn tình cảm. Bà chăm sóc, dạy dỗ và sắm sửa cho đủ thứ, quần áo, đồ chơi, kể cả những thứ đắt tiền phải gửi mua tận trên phố tỉnh, mặc dù nó mới chập chững biết đi. Hai bà cháu cứ ríu ra ríu rít cả ngày trong nhà ngoài sân, tiếng cười, tiếng nựng của già trẻ như không lúc nào vắng.

Vậy mà lâu nay, sau lễ hội ăn mày, bà bỗng đâm ra tư lự. Không biết bà suy nghĩ điều gì mà thỉnh thoảng lại đi ra đi vào, ra chiều bứt rứt không yên. Có lúc bà nhìn Đào và Quý chằm chằm như thể đang so đo, lượng định. Rồi bà nhè nhẹ thở dài, vừa lấy cau trầu ra giã vừa nhai chầm chậm. Vô tình bà ngước lên nhìn bức hoành phi treo trên xà: Truy viễn đường. Bức hoành phi này được để lại từ thuở ông nội của chồng bà. Tìm nhà xa! Có sự ngẫu nhiên huyền bí gì đây chăng? Tìm nhà xa! Ôi! Bà chạnh nỗi lòng, gọi:
- Đào ơi!
- Dạ!
- Con dọn dẹp xong chưa, lên đây mẹ bảo!
- Dạ rồi ạ, con lên ngay đây.
Quý vừa đi học về, chạy vào nhà, quăng ra ván một cuốn vở, nói ào ào:
- Chị Đào! Chị làm bài luận này thử coi! Mà chị dạo này nhác lắm nghe, không chịu đọc, viết gì cả, anh Truyến về em mách, anh mắng cho!

Đào tay nách con tay cầm cuốn vở giở ra xem, mỉm cười gật gật:
- À, đề cũng khó đấy. Nhưng được rồi, chị sẽ làm. Rồi Quý chấm cho chị nghe!
Bà Hương nhìn thấy cảnh ấy cảm thấy cay cay sống mũi. Điều bà định nói với Đào bay đâu mất. Bà chợt nghĩ đến Truyến. Dường như anh con trai bà không dửng dưng với quãng đời trước đây của cô gái đầm phá này, và càng không bỏ qua những gì thay đổi nhanh chóng của cô. Có điều chi đó khác lạ trong tình cảm chứ, nếu không thì tại sao lại chịu khó dạy chữ cho cô, việc mà cô có thể nhờ Quý, người gần gũi hơn, thuận tiện hơn? Và bà nữa, điều gì khiến bà đồng tình với việc làm của con trai bà đối với cô gái? Phải chăng chỉ là tình thương đơn thuần của một người làm mẹ?

Bà day dứt với tình cảnh hiện tại của Đào. Một cô gái bỏ chồng con ra đi, dù thế nào đi nữa, cũng là chuyện không nên, ít ra là chuyện bất đắc dĩ. Một ngày là nghĩa, một đêm là tình! Nhưng còn bố mẹ cô, quê hương cô, lẽ nào đó lại không phải con đường hiếu nghĩa mà cô phải tìm về, phải báo đáp? Giữ cái nghĩa này, bỏ cái nghĩa kia đâu phải là chuyện hay ho. Phải làm sao cho vẹn cả đôi bên chứ!
Đã mấy lần bà thu xếp nhưng rồi lần lữa không muốn để Đào ra đi. Cũng là vì mẹ con cô ấy nữa. Không biết rồi có tìm được quê không, hay lại sa cơ lần nữa. Đường đời bất trắc biết đâu mà lường!

Tự sâu trong lòng, bà thương yêu Đào như con đẻ, phải dứt bỏ tình cảm đó, bà thấy đau đớn như mất đi người ruột thịt. Nhưng cứ giữ mãi cô ở lại, liệu bà có được yên ổn trong lòng, mặc dù như vậy, cuộc đời của cô gái sẽ có thể được đảm bảo hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn. Lâu nay bà để ý thấy mẹ con Đào hay tha thẩn ở góc vườn sau, lòng mẫn cảm của người mẹ đã đoán định được rằng tâm tư Đào đang bị giày vò, giằng kéo bởi đi hay ở, mà đi thì đi đâu? Trở lại với chồng con vạn thuyền đầm phá hay tìm về nguồn cội cha mẹ để xây dựng lại cuộc đời? Trong hai đường ấy, đường nào thuận lẽ hơn, hợp với nhân nghĩa hơn, trọn vẹn hơn? Nhưng mà, trong hai đường ấy phải chọn một, không thể chọn đường thứ ba là ở lại với bà. Nghĩ đến điều này bà Hương thấy lòng đau nhói...
 
8.
Truyến tốt nghiệp loại ưu. Qua giới thiệu của một ông chú họ công chức lâu năm trong ngành đường sắt, anh được bổ đi làm ở một nhà ga tại Quảng Bình. Anh về quê nghỉ một tuần trước khi trở lại thành phố nhận nhiệm sở.

Trên con đường cát dẫn từ bến đò, nơi thắt lại của dòng sông nối liền với giang sơn đầm phá mênh mông và kì bí, Truyến rảo bước để kịp về nhà trước khi trời tối. Lòng anh hồi hộp như mỗi lần về quê thăm mẹ thăm em sau những ngày đêm chúi đầu vào đèn sách. Nhưng lần này anh tự phát hiện trong sâu thẳm lòng riêng, còn có một cái gì nữa thoắt ẩn thoắt hiện, chơi vơi một cách dịu ngọt. Người phụ nữ lạ lùng hơn một năm trước đây xuất hiện bất ngờ ở nhà anh như một ngọn gió, một ngọn gió vừa quen thuộc lại vừa hoang vu như ngọn gió chướng thường thổi trên mặt đầm vào tiết chớm xuân. Ngọn gió ấy làm cho người ta thốt rùng mình vì hơi lạnh xa xôi nó mang về, phải vội khép tà áo lại. Cùng lúc là một nỗi khấp khởi gần như hi vọng về những ngày sắp tới tràn trề nắng ấm dịu trong sự nấn ná của cái rét mùa đông.

Truyến bước vào cổng vườn quen thuộc có những thanh chắn bằng ống tre khô đã nhẵn bóng. Anh chăm chú nhìn như thể thấy được dấu tay người thiếu phụ vừa lạ vừa quen đã bao lâu nay in lên đó. Bất giác anh mỉm cười, nhớ lại những cảm giác trong kì nghỉ hè vừa qua. “Không, không phải như thế!” Anh tự lẩm bẩm mà không biết mình đang nghĩ gì nói gì. Như một ánh chớp lóe lên trong đầu, Truyến ngừng bước khi mắt anh chạm phải cành dạ hương bị gió đánh gãy rũ xuống bên cửa sổ. Không biết vì sao anh vụt nhớ đến một thiên truyện cổ bằng tiếng Pháp mà anh đã đọc đâu đó không còn nhớ tên nhan đề và tác giả. “Một hoàng tử đi săn trong rừng gặp một người con gái điên. Chàng thương xót, đem về dinh riêng. Giấu vua cha, hoàng tử nuôi nấng chăm sóc người con gái điên với tất cả tấm lòng nhân hậu quý báu của mình. Người con gái tưởng tượng hoàng tử là người yêu của mình đã bị chia rẽ bao lâu. Hoàng tử do muốn đưa lại cuộc sống bình thường cho người con gái nên cũng không nỡ nói lên sự thật. Một ngày kia, người con gái hết điên, cũng là lúc người yêu của nàng tình cờ xuất hiện sau bao năm chàng ta lang thang khắp chốn tìm kiếm. Nhưng hỡi ôi, chàng ta bây giờ đã trở nên ngớ ngẩn do bị bọn dã tâm chia rẽ hai người hành hạ. Người con gái nửa muốn trở về với người yêu, nửa muốn ở lại với hoàng tử. Hoàng tử biết chuyện, hết lời khuyên nàng trở lại, mặc dù trong lòng chàng đau như dao cắt. Người con gái một ngày nọ ra đi với người yêu cũ, nước mắt nàng dài theo bước chân tiễn đưa của hoàng tử. Hoàng tử trở về dinh đau đớn và ngạc nhiên thấy nơi những giọt nước mắt nàng rỏ xuống đất bỗng mọc lên một hàng cây có những cành la mềm tươi nhưng cứ rũ xuống, thướt tha mỗi khi làn gió vút qua. Người ta sau này gọi cây đó bằng cái tên “cây liễu rủ”.

Truyến bước vào nhà. Cảnh tượng đập vào mắt anh là mẹ và em gái ngồi mỗi người một góc, đang trễ nải làm gì đó. Mẹ têm trầu một cách băn khoăn, bồn chồn, còn em gái thì đưa những nhát lược lên mái tóc với vẻ lười biếng. Hai mẹ con lơ đễnh đến mức không nhìn thấy cái bóng dáng cao và hơi gày của anh che tối cả một nửa khung cửa ra vào. Anh lên tiếng:
- Mẹ, mẹ mệt à? Có chuyện gì phải không?
Quý ngước lên, òa khóc, chạy đến níu khuỷu tay anh trai:
- Ối anh đã về, chị Đào đã đi rồi, anh ơi!
- Đi đâu, hả? Đi đâu? - Truyến giật giọng.

Bà Hương thở dài, ra hiệu cho con trai ngồi xuống rồi điềm tĩnh, thẽ thọt:
- Mẹ con nó về quê tìm lại bố mẹ anh em. Vậy là đã thấm thoắt gần mười năm trời lưu lạc. Mẹ đã suy nghĩ nát nước nát cái rồi, Truyến ạ. Gia đình ta hơn một năm qua đã coi nó như là một người cùng dòng máu. Không ai muốn cắt chảy dòng máu của mình. Nhưng mà không được, con ơi. Trước sau rồi cũng phải lo liệu cho tròn đạo lí. Đã nhiều lần, nó cũng muốn thưa với mẹ, nhưng rồi tình cảm ngày một gắn bó, nó cũng lần lữa, đi không dứt, ở cũng không đành, dằn vặt, khắc khoải đêm ngày. Mẹ và em Quý cũng vậy, đâu có nhẹ nhõm gì! Mẹ cũng biết thêm một điều là nỗi lòng của nó đối riêng với con. Mà con cũng vậy, chuyện chưa tới thì chưa nên bàn. Nhưng mà phần con, con đâu có phải như gió thổi ngoài đầm, mây bay trong núi... Nó ra đi mà bước chân nặng trĩu. Đêm qua bốn mẹ con bà cháu đã khóc hết nước mắt đó con ơi! Nó vừa đi lúc trưa. Phải chi con về sớm một buổi thì anh em đã gặp nhau rồi...

Truyến im lặng ngồi nghe, lòng buồn rười rượi. Hồi lâu, anh đứng dậy:
- Mẹ ơi! Cô ấy tìm về quê là phải. Con biết thế nào cũng có ngày đó. Con đã dự định sẽ về đưa cô ấy đi. Từ đây ra Ninh Bình đường sá xa xôi... Nhưng muộn rồi, tăm cá bóng chim, biết đâu...
Truyến ngừng, đi đi lại lại. Bỗng anh chụp vội mũ lên đầu, xách quai va li lên:
- Thưa mẹ, mẹ hãy cho phép con đi tìm cô ấy. Thế nào cô ấy cũng lên Huế để từ đó kiếm cách ra Bắc. Con sẽ tìm được cô ấy! Nhất định tìm được!

Truyến gấp gáp, vội vàng luống cuống, khác với bản tính thường ngày của anh.
Bà Hương nhìn con trai vừa lắc đầu vừa gần gật, trong lúc Quý trố mắt tràn đầy những hi vọng nhìn anh trai rồi lại nhìn mẹ, miệng cứ há ra...
Ngoài sân, chiều đã sậm. Những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu xiên từ các vòm cây vươn xuống, vẽ thành những đường chéo sáng vàng, run run theo làn gió nhẹ vừa lướt qua..
 
9.
Chị quấn chiếc địu mà bà mẹ nuôi đã may cho thêm một vòng quanh co lưng, buộc hai múi thắt lại. Có vẻ nhẹ hơn rồi! Con bé nằm trên lưng chị, y như nó nằm ngủ ở nhà, lúc nào chân tay cũng xoãi ra như con ếch đang bơi. Chị quay đầu nhìn chừng con. Nó đang liu riu theo nhịp chân mẹ vừa khấp khởi vừa dùng dằng trên đường về. Chị hình dung trong đầu khi bước chân vào mái tranh thân yêu ở quê nhà. Cha mẹ chị giờ chắc đã già thêm, nhà cửa ao vườn qua kì đói kém chắc đã trở lại xanh tươi mỡ màng. Gia đình chị không còn thất tán, lại trở về đông đủ sum họp như xưa. Dòng sông Hoàng Long quê chị vốn đậm đặc phù sa như đang vẫy gọi trở về.

Trời đang ngả về chiều. Đã qua một ngày chị rời mái nhà thân yêu không phải của chị mà còn hơn là của chị. Ở đó, có biết bao kỉ niệm êm đềm, biết bao nỗi niềm sâu kín mà níu kéo, mà giằng co. Từ cái ngày lễ hội ăn mày nọ, bóng dáng chồng và con trai tưởng đã gửi lại, trả lại cho mù sương mặt đầm bỗng trỗi lên trong lòng chị, vừa tan loãng, vừa như có hình khối rõ ràng. Chị đã muốn xóa đi tất cả, lãng quên tất cả để bước vào cuộc đời khác. Nhưng oái oăm thay, không những chị đã không thanh thản mà còn bị xáo động, rối tung...

Phải chăng chị trốn khỏi đầm phá là một sai lầm, hơn nữa là một tội lỗi. Vạn thuyền chị, chồng con chị nào có lỗi lầm gì mà phải gánh lấy nỗi đau mất mát. Dù bị bắt buộc nhưng giọt máu của chị đã rơi ra, giọt máu ấy cũng thiêng liêng như bất cứ giọt máu của người mẹ nào, trên cạn hay dưới đầm cùng là người mẹ, cũng là nỗi đau và hạnh phúc, sao chị lại dứt bỏ nó, từ chối nó.

Đã mười năm chị chèo kéo trên mặt đầm, lớn lên cùng sóng nước, thở theo nhịp thở của thủy triều lên xuống, con tôm, con cá đã là bạn bầu của chị, trời nước bao la đã là tầm nhìn của chị, mầu nước sắc mây đã là dung nhan của chị, sao lại dễ dàng đánh mất...
Đang bước nhanh, chị thốt dừng lại như bị một bàn tay nào đó níu lại. Chị ngồi xuống bên một gốc cây, cởi địu, lấy nắm cơm mà Quý đã vắt gói trong bẹ tàu cau lụa, bẻ một miếng cho con ăn. Con bé cười toe, ngọng líu cái giọng tập nói: “Măm măm mẹ, ùi!”.

Đoạn đường dài cùng với nỗi lòng lê thê suốt gần một ngày ròng rã làm chị mệt nhoài. Chị uống hớp nước trong ống tre mang theo, hai mắt từ từ díp lại, chìm dần... chìm dần...
“... Lễ nhập vạn của dân chuyên sống trên mặt đầm phá diễn ra trên lòng thuyền, đơn độc giữa vời phá mênh mông. Bốn phía là trời và nước, nước và trời. Bến bờ chỉ là những sợi chỉ mong manh, mờ mờ tít tắp, tưởng như chèo hàng tháng hàng năm mới tới.

Người nhập vạn giờ đây là chị, một cô bé mười ba tuổi.
Một chậu nước đặt ở ván đầu mũi thuyền, nơi diễn ra các tập tục riêng biệt của người dân đầm phá. Trong chậu, lượn lờ một con tôm, tượng trưng cho bản mệnh người nhập vạn. Con tràu hoặc con cá ngạnh là tượng mệnh của người con trai. Con bống hoặc tôm là tượng mệnh cho người gái. Trên mũi thuyền, con sào chống vát lên thành góc chéo, trên chỗ bịt sắt buộc một dải vải đỏ bỏ thõng hai múi, tượng trưng cho sức mạnh dân vạn đầm, hai mái chèo gác hai bên chìa ra khỏi lòng thuyền theo hình vây cá, tượng trưng cho lòng chung thủy với nghề sông nước.

Cuộc hành lễ đơn sơ mà tráng lệ. Ông già cởi trần, ngực quấn một vòng vải đỏ như dải trên đầu sào, cầm một bó hương nghi ngút khói cắm lên đầu mũi thuyền. Đoạn ông lui về sau, rạp đầu lạy hai lạy, đan hai bàn tay vào nhau khuỳnh lên ngang trán, khấn xin. Xong, lạy tiếp hai lạy nữa. Bấy giờ chị - người nhập vạn, cũng cởi trần như thân chủ - mới đứng lên đu vào hai cánh tay của ông già và anh con trai bện chặt lấy nhau như một sợi dây. Hai người đánh võng chị và hú: “Hu hầy! Hu hầy! Hu hầy!” Đến nhịp thứ ba thì chị buông tay để toàn thân rời “sợi dây” rơi tự do xuống đầm. Người ta nghe tiếng rơi của người mới nhập vạn để biết lòng Thần Phá. Tiếng rơi càng to càng gọn là Thần Phá vui lòng. Tiếng rơi xòe ra, lọc bọc, lóc bóc... là Thần Phá không ưng, phải làm lễ khác vào một ngày khác.

Hai người vạm vỡ nên đánh võng mạnh quá làm chị sợ hết hồn co rúm cả tay chân, người như một cục thịt tròn vo. Chị rơi như một hòn đá rơi. Mặt đầm như bị khoét một lỗ thủng chui tọt xuống gọn gàng như không. Vậy là Hà Bá đã chấp nhận một người con mới của đầm phá. Thân chủ vái tạ. Bó hương cháy dở và cái dải vải cúng đều được thả xuống đầm cùng với con tôm bản mệnh. Lễ tất...”.
Cùng lúc, tiếng lao xao í ới của người qua ngang gọi đò. Chị bừng tỉnh. Chiếc đò ngang đã cập bến. Sang bên kia, dấn thêm non buổi nữa là chị sẽ đến ven thành. Chị như nghe rõ tiếng gọi “Đào ơi... ời” cùng cái vẫy tay quấn quýt của mẹ chị trước mặt. Rồi chị thấy hai cánh tay như hai cánh chim non của thằng con trai lên năm đứng trên thuyền cạnh cha nó với tấm lưng khòm khòm như mu rùa mốc thếch rong rêu đầm phá. Thoắt cái, chị thấy hiện lên bóng ông già cùng lời trối trăng văng vẳng bên tai. Thoắt cái, chị lại mường tượng hai cha con tơi rách nón mê lùi lũi đi giữa lễ hội ăn mày, đôi mắt von vót đuôi cá chình của nó không thèm liếc ngang mâm cỗ mà lại liếc xéo lên mặt chị như trách, như hỏi, như cầu mong chị trở về. Có lẽ hai cha con không chỉ một lần đó, còn bao lần nữa rạc cả người, hết cả hơi, đi tìm chị...

Từ đâu đó, một giọng hò cất lên, vô tình mà làm lòng chị như muối xát:
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Ruông nhà Hồ nội tán đã cấm nghiêm
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn biển bắc anh tìm biển nam...

Đang dợm chân bước xuống đò bỗng chị rên “ồi ồi” một tiếng trong cổ họng, rồi vụt quay người, chạy lui. Con bé nằm trên lưng chị bị ngật đầu một cái, khóc ré. Chị vừa chạy vừa vỗ vào mông con bé. Con ơi, con à! Đừng khóc con ơi!...
Chị cứ cúi cổ chạy, như thể nếu quay đầu lại nhìn một thoáng thì không thể nào thay đổi...
 
10.
Đó là chuyện hơn ba mươi năm về trước. Sau Cách mạng tháng Tám, phải mấy năm sau tôi mới có dịp hỏi thăm về tới cái làng nhỏ bé nằm cạnh bờ sông Hoàng Long, dò tìm tung tích cha mẹ của Đào. Nhưng dân làng cho biết hai cụ đã mất sau một thời gian dài suy sụp vì tìm mãi không thấy con gái. Vậy là Đào đã không về quê. Tôi trở về cơ quan với nỗi lòng nặng trĩu...
Rồi cuộc kháng chiến kéo dài, mọi chuyện riêng tư, mọi éo le của hoàn cảnh đều được gác lại một bên.

Cho đến ngày thống nhất đất nước tôi mới có dịp trở về quê thăm lại những người ruột thịt và làng xóm nơi chôn nhau cắt rốn. Tôi đã là một ông già sắp bước vào tuổi “nhĩ thuận”. Mẹ tôi đã mất. Cô Quý vẫn ở ngôi nhà cũ với một đàn dâu rể cháu con đông đúc. Chính nhờ cô Quý mà tôi gặp lại được người cũ trong một buổi chiều hao hao buổi chiều trong kí ức.

Bà Đào bây giờ không còn sống trên mặt đầm nữa mà đã định cư trên bờ tại vùng cửa Tư Hiền cách làng tôi non giờ chạy xe máy. Chồng bà, người con vạn đầm hiền như ngọn rong ngày đó cũng đã mất. Bà có đến sáu người con. Hai người con mà ta đã biết, cô gái thì lấy chồng buôn bán bên kia đường quốc lộ, thỉnh thoảng đáp ca nô hoặc tàu nước vượt qua đầm để về thăm mẹ bên này. Còn người con trai mắt vót đuôi cá chình ngày nào giờ vẫn theo nghề trên sóng nước, có điều là giờ đây anh ta là chủ của một đội thuyền máy khá lớn, chuyên đánh cá khơi xa. Những ngày không đi biển hoặc từ biển trở về, anh ta neo thuyền ở mép cồn giữa đầm nơi hồi xưa bố con anh vẫn găm thuyền mỗi khi nghỉ ngơi, rồi lái xuồng gắn máy lên bờ, về nhà.

Tôi còn nhớ bà Đào thua tôi hai tuổi. Tóc bà không thấy bạc mà vẫn nhưng nhức như làn tóc tiên bà chăm sóc hồi nào ở nhà tôi. Vẫn cái nước da ngăm ngăm mằn mặn. Đôi mắt dẫu đã rạn chân chim nhưng vẫn tròn to màu nâu cháy, vừa cởi mở chân thật, vừa bí ẩn xa xăm. Chúng tôi ngồi bên nhau trò chuyện. Gọi là trò chuyện nhưng tôi chỉ hỏi một câu, rồi im lặng nghe bà Đào nói... về cái ngày bà còn được gọi là chị Đào, rời nhà tôi ra đi...

... Khi chị về tới chỗ góc đầm hoang vu, nhìn ra cái cồn nhỏ giữa phá, chị không thấy tăm hơi vạn thuyền chồng con. Chị những tưởng hai cha con đã rời chỗ, đi làm ăn nơi khác, tại một góc nào đó của cái đầm phá mênh mang xứ này. Một trên bờ, một dưới nước, bóng cá chớp chim... Chị cứ đi dọc bờ đầm mà ới gọi, mà soi nhìn, nát cả chân, khản cả giọng. Ba ngày ròng rã như vậy, ba ngày dài như ba thế kỉ. Không khéo cha con vạn thuyền đã tan nát rồi, đã lưu lạc rồi, đã bị Hà Bá gọi về hầu hạ rồi... Nghĩ như vậy nhưng chị vẫn chưa hết hi vọng. Nếu anh đã bắt được vợ khác, cũng là điều may mắn, cũng tốt, miễn là còn sống... Đến ngày thứ tư vẫn không thấy tăm hơi, chị định quay về nhà mẹ nuôi thì bỗng trong tiếng gió, chị nghe tiếng chém nước phầm phập đâu đó, mơ hồ... Tiếng chèo chém nước nhịp đôi, ngọt và hơi ngâm của chồng thì tai chị nghe đã thuộc. Bao nhiêu năm sống trên đầm phá đã luyện cho chị một đôi mắt tinh như rắn nước, một đôi tai thính như vịt trời. Chị nhìn lướt một vòng cung ra mặt phá, định vị nơi phát ra tiếng chèo. Và chị quay lui, hướng tầm nhìn về hòn Thúy Vân. Kia rồi, từ bên kia mép hòn, một chấm mờ xuất hiện, to dần, to dần. Đến khi cái mui thuyền lợp lá thiêm lang già quen thuộc lộ rõ cái màu nâu như gan cá của nó, chị đưa cả hai tay lên khoảng không mà ngoắt, ngửa cổ lên trời mà réo gọi. Chị lội ra giữa dòng nước ngập ngang ngực rồi bơi đứng. Con bé trên lưng chị khoái quá, vỗ tay á á. Vừa lúc chồng chị lướt thuyền tới. Anh quăng chèo, nhảy xuống nước. Như một con rái tơ, chỉ vài ba vòng rướn, anh đã xáp đến bên chị. Rồi một tay quặp lấy chị, một tay giật con bé ra khỏi vai chị, ấp chập vào ngực, dùng hai chân quẫy nước, bơi ngồi về thuyền. Thằng con trai đứng trên thuyền mới hơn năm tuổi nhưng đã ra vẻ ông chủ tương lai lắm, nó choãi hai chân ra, hai tay chống nạnh, mặt cứ ngất lên, nhắm tít mắt, cười hết cỡ... Mấy tuần sau đó, vợ chồng chị đánh được mẻ cá lớn, nách một rổ to đến thăm mẹ và cô em nuôi trên bờ để tạ ơn mà chị gọi là ơn “biển trời đầm phá”...

Tôi ngồi lặng phắc, lòng bâng khuâng không bút nào tả xiết. Thấy vậy bà Đào cất một tiếng cười dường như vô tư. Nhưng bà bỗng thoắt trầm ngâm, rồi nói như thì thầm:
- Ngày đó, tôi yêu ông lắm mà không dám thổ lộ, ông có biết không?

Tôi cố nén một tiếng thở dài, không trả lời. Mà thật, bà Đào hỏi có phải để mong câu trả lời đâu! Bà nói tiếp, hồn nhiên như không:
- Ờ mà ngày đó, tôi cũng lạ ông nhỉ? Gái “mọi đầm” hai con dám yêu một ông tú tài, lại là ông anh nuôi của mình! - Bà cười khanh khách, tiếng cười nghe rất trẻ.

Lát sau, bà chép miệng:
- Chuyện gần hết một đời người, ông nhỉ? À mãi sau này, vợ chồng tôi mới về Hoàng Long được, sau cái ngày ông đến tìm. Bây giờ thì đâu cũng là đất nước mình, tôi ở đây cũng được, cũng thuận, ông thấy có phải không?
- Vâng! Cái hồi đó bà nghĩ ra sao mà quay lại đầm phá vậy? - Bất giác tôi hỏi một câu ngớ ngẩn.

Bà Đào im lặng một lát, thấp giọng lại, hơi xa xôi:
- Ông có nhớ về cái lễ hội ăn mày hàng năm ở làng ông không? Đấy bắt đầu từ đấy...
Nói rồi, bà vào nhà trong soạn sửa cơm đãi khách.
Tôi đứng lên, ra thềm ngoài. Ở đây, có thể nhìn vọi ra mặt đầm không bị cây cối bụi bờ che khuất. Bấy giờ, ráng chiều đã nhuộm. Cả một vùng bao la ngun ngút bỗng bừng lên, đổi sắc màu, đỏ ối cả trên trời dưới nước... 
 
H.N