. NGUYỄN THUỲ TRANG
Chiến tranh luôn là một vấn đề nhức nhối trong lịch sử nhân loại, để lại những tổn thương sâu sắc đến những người trực tiếp tham gia và ảnh hưởng qua các thế hệ sau. Đối với thế hệ trẻ người Pháp gốc Việt, chiến tranh không đơn thuần là những câu chuyện lịch sử được kể lại mà còn là một phần của di sản văn hóa, một kí ức tập thể thừa hưởng từ ông bà, cha mẹ. Tác phẩm Sống của Hải Anh và Pauline Guitton (Nxb Kim Đồng, 2024) là minh chứng tiêu biểu cho cách thế hệ trẻ tiếp cận, cảm nhận về chiến tranh Việt Nam; cho thấy, cuộc chiến này vừa tác động đến nhân dân Việt Nam vừa in dấu trong tâm thức của cộng đồng người Việt tại Pháp.
1. Nhìn nhận về một cộng đồng người Pháp gốc Việt
Người Pháp gốc Việt có nguồn gốc từ nhiều làn sóng di cư khác nhau, bắt đầu từ thời thuộc địa, trải qua các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, phong trào thuyền nhân, và đến nay tiếp tục tăng nhờ du học, lao động hoặc ở lại lập nghiệp cùng hậu duệ.(1) Từ thập niên 1990 trở đi, quan hệ Pháp - Việt được cải thiện, nhiều sinh viên Việt Nam sang Pháp du học, đặc biệt trong các ngành khoa học, kinh tế, kĩ thuật, một số ở lại làm việc và nhập quốc tịch Pháp. Với quá trình lịch sử di dân lâu dài, cho đến nay, cộng đồng người Pháp gốc Việt có khoảng 300.000 - 350.000 người. Đây là một trong những cộng đồng người Việt lớn nhất tại châu Âu. Họ chủ yếu sinh sống ở các thành phố lớn như Paris, Marseille, Lyon, Toulouse. Cộng đồng này được chia làm hai nhóm chính: người Việt truyền thống (di cư trước 1990, chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp); người Việt mới (du học sinh, lao động, đến từ Việt Nam sau này, giữ văn hóa Việt rõ rệt hơn). Xét về vị thế, người Pháp gốc Việt có ảnh hưởng nhất định trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, y tế, kinh doanh và nghệ thuật.
Nữ nhà văn Hải Anh sinh năm 1993, lớn lên ở quận 13 Paris (Pháp) trong một gia đình luôn hướng về nguồn cội Việt Nam. Mẹ của Hải Anh là Việt Linh, sinh năm 1952 tại Sài Gòn, là một đạo diễn và nhà biên kịch nổi tiếng người Việt Nam. Việt Linh từng có thời gian bảy năm sống cùng bố - một cán bộ cách mạng ở chiến khu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Sau đó, bà đến Moscow (Nga) theo học tại VGIK - trường điện ảnh danh giá của thế giới. Bà ngoại Hải Anh cũng định cư tại nước ngoài theo diện đoàn tụ con cháu sau chiến tranh. Như vậy, Hải Anh là thế hệ F2 thuộc nhóm cộng đồng người Việt tới Pháp sau 1975 để du học.
Sau khi lấy bằng thạc sĩ kinh tế học văn hoá rồi đến bằng điện ảnh, Hải Anh ra mắt cuốn sách đầu tay Sống. Năm 2020, Hải Anh chuyển về thành phố Hồ Chí Minh. Hiện cô làm việc trong lĩnh vực nghe nhìn và xuất bản, đi lại giữa Việt Nam và Pháp. Hải Anh được Tạp chí Forbes vinh danh là một trong những gương mặt trẻ xuất sắc dưới 30 tuổi tại châu Á năm 2023.
Pauline sinh năm 1993, là hàng xóm của Hải Anh. Họ gặp nhau khi mới chỉ là những đứa trẻ mười tuổi; kể từ đó, hai người trở thành đôi bạn thân thiết. Sau khi theo học tại trường Mĩ thuật Caen, Pauline đến Việt Nam sống cùng Hải Anh một năm. Chính đó là thời gian nhen nhóm một dự án làm chung. Trở về Pháp, Pauline tiếp tục học ở trường Gobelins. Hiện cô chủ yếu làm việc với tư cách hoạ sĩ vẽ bảng phân cảnh hoạt hình. Sống là truyện tranh đầu tay của cô, cũng là sự kết hợp độc đáo với một tác giả gốc Việt. Hải Anh từng chia sẻ với mẹ, đạo diễn Việt Linh, rằng cô mong muốn viết cuốn sách ở Pháp để cộng đồng hiểu về đất nước của mình, về nguồn cội dân tộc.
2. Thế hệ trẻ người Pháp gốc Việt với quan điểm về chiến tranh
Thế hệ thanh niên ở Việt Nam đã được giáo dục về lòng yêu nước, niềm tin cách mạng qua từng trang sách ngay từ nhỏ, với bài học vỡ lòng Năm điều Bác Hồ dạy. Tuy nhiên, đối với thế hệ trẻ người Pháp gốc Việt, cách họ tiếp cận và nhìn nhận về chiến tranh Việt Nam không chỉ gắn liền với những tri thức lịch sử phổ quát, mà còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ môi trường sống phương Tây - nơi đề cao nhân quyền, tự do cá nhân và tinh thần phản chiến. Vì thế, khác với thế hệ đi trước, nhiều bạn trẻ gốc Việt có những góc nhìn đa dạng về chiến tranh Việt Nam. Một số rơi vào bi kịch mất bản sắc dân tộc, thiếu hiểu biết lịch sử khi bước ra bên ngoài biên giới(2). Họ xóa đi “căn cước văn hóa” phương Đông, lo lắng đến sự tồn tại hợp pháp và hòa nhập trong “nỗ lực gia cố tính phương Tây” của mình. Một số khác có xu hướng xem chiến tranh như một thảm kịch nhân loại nói chung. Quan điểm này được hình thành từ nền giáo dục nhân văn của Pháp, hướng đến suy nghĩ độc lập và tư duy phản biện.
Mặc dù sinh thành tại Pháp, song Hải Anh luôn nỗ lực gắn kết với nguồn cội và vượt qua những giới hạn, định kiến thông thường khi người hải ngoại nói về chiến tranh Việt Nam. Bởi gốc xuất thân của cô không phải là lớp người tị nạn chính trị, thuyền nhân, mà cô được nuôi dưỡng trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Ông bà ngoại và mẹ Hải Anh đều là những cán bộ cộng sản hoạt động tích cực ở chiến khu, thuộc Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Cho nên, Hải Anh được kế thừa kí ức hào hùng của gia đình, luôn trăn trở với những băn khoăn đau đáu, mà câu hỏi sau cùng là: Di sản của chiến tranh để lại là gì? Sự ra đời của tác phẩm Sống chính là kết quả cho hành trình tra vấn đó.
Nội dung của Sống kể về quá trình của cô gái trẻ Hải Anh tìm kiếm cội nguồn và đối diện với quá khứ gia đình. Thông qua đó, Hải Anh nhấn mạnh hậu quả chiến tranh đối với những con người từng trải qua và đặt ra câu hỏi về danh tính, về sự kết nối giữa quá khứ - hiện tại. Các cuộc hội thoại như “Mẹ ơi, mẹ có ổn không?”, “Mẹ ơi, vết thương này là sao ạ?”, “Có lúc nào mẹ hối tiếc không?”… thoạt tiên tưởng như câu vu vơ của con trẻ tò mò khám phá thế giới và cuộc sống của một người mẹ vừa bước qua chiến tranh. Nhưng sâu hơn, đó chính là ý thức được biết về nguồn cội, dân tộc mình. Và cao hơn, đó là trách nhiệm của thế hệ trẻ người Việt tại Pháp cần gìn giữ lịch sử đất nước.
Vì thế, một trong những điểm nhấn trong góc nhìn của Hải Anh - Pauline Guitton là phương thức các tác giả tái hiện chiến tranh với tư cách của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba trong cộng đồng người Việt tại Pháp. Không có trải nghiệm trực tiếp về chiến tranh, nhưng Hải Anh vẫn cảm nhận được sự sinh động của quá khứ qua lời kể, kí ức của người thân, và qua chính những trăn trở của bản thân về lịch sử. Đây cũng chính là tâm thức chung của nhiều người trẻ gốc Việt, những người luôn bị phân thân đứng giữa hai thế giới: một bên là quê hương trong những câu chuyện quá khứ, một bên là thực tại của cuộc sống nơi xứ người.
Sự hấp dẫn, lôi cuốn của tiểu thuyết bằng tranh Sống chính là những sự việc được kể một cách dung dị, như một cuốn phim được dựng đồng hiện quá khứ và thực tại, cho người đọc khám phá chiến tranh, lí tưởng sống của cả một thời đại từ góc nhìn nữ tính và trẻ thơ. Nghĩa là điều này như những câu chuyện mẹ kể con gái nghe, những chia sẻ lịch sử con gái thắc mắc hỏi mẹ. Giải thích động lực cho ra đời Sống, Hải Anh tâm sự: “Sống là từ nảy ra trong tâm trí tôi khi mẹ kể tôi nghe những cuộc phiêu lưu li kì thời niên thiếu của bà và, mặc dù là câu chuyện cá biệt, tôi quyết định tóm tắt mỗi kí ức bằng một động từ tiếng Việt, để có thể ghi khắc những kí ức ấy vào chủ đề phổ quát hơn”(3). Nên khi tiếp cận Sống, độc giả sẽ thấy góc nhìn mới về chiến tranh. Trên phông nền tàn khốc của những trận đánh ác liệt, làn mưa bom bão đạn liên hồi phóng xả xuống quê hương, những mất mát, chấn thương và cả chiến công…, chúng ta còn biết thêm câu chuyện dở khóc dở cười về anh lính tên Nam đa tình, liều mình bỏ đơn vị đi thăm người yêu, khiến hàng chục người tất tả chạy loạn trong đêm mưa vì sợ lộ căn cứ bí mật. Hay chuyện cô bé Linh những ngày đầu ở chiến khu khốn khổ, bị cô lập vì những buổi họp phê bình lề lối “tiểu tư sản”. Chuyện những vườn rau tăng gia trong rừng của tổ làm phim biết nói chuyện, tâm tư. Chuyện quá trình bảo quản những thước phim cách mạng được giấu bí mật dưới hầm sâu. Bi kịch chia li của ông bà Hải Anh, vì nhiệm vụ cách mạng mà phải đóng giả vợ chồng với người khác, để rồi sự cố xảy ra làm tan vỡ gia đình. Thậm chí cả sự bất tiện, ngại ngùng của nhiều phụ nữ khi trải qua kì kinh nguyệt.
Bản thân người mẹ trong tác phẩm Sống là nhân vật có tính “dấn thân”. Việt Linh chấp nhận từ bỏ cuộc sống bình yên ở phố thị với mẹ và dượng, để đi tìm cha, đến với cách mạng. Có lúc cô cảm thấy “hối hận”. Đó là những ngày đầu, “chân mẹ trầy da, phỏng rộp, bong gân… mẹ cảm thấy kiệt sức. Mẹ tự trách mình nông nổi, chưa gì đã quyết định tới cùng như vậy. Chưa kể bữa ăn đầu tiên là thịt chuột và thịt rắn… suýt nữa thì mẹ muốn bỏ về”(4). Nhưng rồi, Việt Linh đã “quen với cuộc sống chiến khu”, “mẹ thấy mình đầy sức sống và phát hiện bản thân thích phiêu lưu; mẹ tự nhủ, ở đây, ai nấy đều chịu đựng và hi sinh, vì sự nghiệp lớn lao là độc lập dân tộc và cả điện ảnh”(5). Huyết mạch yêu nước và đam mê với “nghệ thuật thứ bảy” đã mang đến cho Việt Linh thành công rực rỡ trong sự nghiệp về sau. Với tấm gương hi sinh và lí tưởng đẹp đẽ, “người mẹ” trong Sống đã truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ như Hải Anh.
Có lẽ, không chỉ dừng ở việc mượn tiêu đề cuốn sách để đối thoại về quan niệm “sống như thế nào”, Hải Anh - Pauline còn muốn nối dài câu chuyện lịch sử của lớp người đi trước để hướng tới một sự “ghi nhớ chung” về chiến tranh Việt Nam. Sự kết hợp của tác giả người Việt và người Pháp đã mang đến cách tiếp cận lịch sử một cách khách quan, không bị ràng buộc bởi định kiến chính trị, thể hiện mối giao lưu, gắn kết giữa Pháp và Việt Nam.
3. Thế hệ trẻ người Pháp gốc Việt với khát vọng tìm hiểu văn hóa dân tộc
Chiến tranh, qua góc nhìn của thế hệ trẻ người Pháp gốc Việt, không chỉ là lịch sử mà còn là một hành trình cá nhân đi tìm bản sắc văn hóa. Như đã nói, họ không còn nhìn nhận chiến tranh dưới lăng kính hận thù hay chính trị, mà thay vào đó là sự thấu hiểu, hòa giải và mong muốn kết nối giữa hai bờ quá khứ - hiện tại. Sống của Hải Anh - Pauline Guitton ngoài phản ánh nỗi đau của một dân tộc, còn là câu chuyện chung của những người con lai giữa hai nền văn hóa, những người mang trong mình nỗi suy tư về nguồn gốc nhưng cũng khát khao hòa nhập với thế giới hiện đại.
Mở đầu tác phẩm, Hải Anh đã trần tình: “Với tôi, dùng tiếng mẹ đẻ và giữ nguyên dấu để đặt tên cho cuốn tiểu thuyết bằng tranh này là điều hết sức quan trọng khi xuất bản lần đầu tiên ở Pháp”(6). Ngôn ngữ là một khía cạnh phản ánh văn hóa. Việc kiên quyết giữ gìn vẻ đẹp tiếng Việt bằng cách để lại những động từ trọng tâm có dấu (thanh điệu) qua tác phẩm song ngữ Pháp - Việt cho thấy tình cảm chân thành của Hải Anh với bản sắc nguồn cội. Các lớp từ được biểu đạt trong Sống của Hải Anh - Pauline Guitton phản ánh rõ nét công cuộc khám phá và kết nối với văn hóa Việt của thế hệ trẻ gốc Việt tại Pháp. Vì nhiều người trẻ gốc Việt không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với văn hóa Việt Nam. Họ tiếp thu nền giáo dục phương Tây, sử dụng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính và hòa nhập với xã hội bản địa.
Sự diễn trình nguyên bản ngữ âm tiếng Việt không chỉ xuất phát từ nhu cầu cá nhân mà còn là một cách để họ hiểu về bản thân, về lịch sử gia đình, và từ đó hình thành bản sắc riêng. Đối với nhiều người, văn hóa Việt Nam không chỉ là ngôn ngữ hay ẩm thực, mà còn là những giá trị tinh thần, những truyền thống và cả những câu chuyện lịch sử được truyền lại qua các thế hệ. Đi sâu vào tác phẩm, những đoạn hội thoại, những hoạt cảnh đều cho thấy sự cố gắng tái hiện bức tranh văn hóa Việt Nam trong quá khứ. Những chiếc khăn rằn ri quàng trên cổ là nét đẹp một thời của người Nam Bộ; những bông lau phất phơ trong gió hay rặng dừa ẩn khuất phía sau mỗi câu chuyện làm sinh động cảnh quan quê hương; bộ răng mạ vàng lưu dấu chuẩn mực vẻ đẹp người Việt xưa; bữa ăn gia đình với bát cơm trắng, dĩa rau xanh, nồi cá kho, tô cà pháo, đặc trưng cho mâm cơm người Việt; những vật lộn sinh tồn của cán bộ cách mạng ở chiến khu khi phải đi bắt mối kiến để ăn, dùng nước tro thay muối, sáng tạo bếp Hoàng Cầm… dù là chi tiết nhỏ, cũng đủ thấy sự trau chuốt, tỉ mỉ của các tác giả khi tái hiện lại đời sống văn hóa Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ.
Trong hành trình nhân vật chính quay về khám phá văn hóa Việt, cô còn đối diện với những khó khăn trong khoảng cách/ trở ngại phong tục, nề nếp, lối sống. Nhưng nhờ thế, nhân vật chính dần nhận ra rằng, văn hóa Việt không chỉ tồn tại trong những câu chuyện xa vời mà còn hiện diện trong cách người Việt ứng xử, trong nếp sống, trong từng món ăn hay câu hát dân gian. Những trải nghiệm thực tế giúp cô cảm nhận rõ ràng hơn về văn hóa dân tộc, mối quan hệ không thể tách rời giữa quá khứ với hiện tại.
Tác phẩm Sống đã khắc họa chân thực những khó khăn của thế hệ trẻ gốc Việt trong việc tìm hiểu văn hóa dân tộc: sự khác biệt về ngôn ngữ, những cú sốc ứng xử khi trở về quê hương, hay cả những câu hỏi về danh tính cá nhân. Đây là điều hết sức dễ hiểu và cảm thấu. Vì khoảng cách văn hóa - thời gian là một rào cản vô hình, nếu không nhận thức được, sẽ gây nên mặc cảm di dân, chối bỏ nguồn cội. Tuy nhiên, từ hành trình gian nan ấy, nhân vật chính đã dần tìm thấy sự kết nối, không chỉ với quê hương mà còn với chính bản thân mình.
Ngoài việc tìm hiểu, nhiều người trẻ Pháp gốc Việt còn mong muốn bảo tồn và phát huy văn hóa Việt Nam trong cộng đồng. Họ tham gia vào các hoạt động văn hóa, học tiếng Việt, tìm hiểu về lịch sử, nghệ thuật, âm nhạc truyền thống… Một số người còn sáng tạo và lan tỏa văn hóa Việt qua nghệ thuật, văn học và các hoạt động xã hội. Sống gửi gắm một thông điệp quan trọng: dù sinh sống ở bất cứ nơi đâu, những người con gốc Việt vẫn có thể bảo tồn tinh hoa dân tộc bằng cách hiểu và trân trọng văn hóa của mình. Thế hệ trẻ hôm nay không chỉ tiếp thu văn hóa phương Tây mà còn chủ động khám phá, tiếp nối những giá trị truyền thống để xây dựng một bản sắc cá nhân hài hòa giữa hai nền văn hóa.
*
* *
Nhìn chung, Sống thể hiện một góc nhìn mới về chiến tranh, là cách thế hệ trẻ gốc Việt tại Pháp đối diện với lịch sử để hiểu về chính mình. Tác phẩm như một cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, đau thương và hi vọng, và trên hết, nó thể hiện khát khao sống, vượt qua vết thương quá khứ để hướng tới một tương lai hòa bình và hòa hợp hơn. Vì thế, Sống là một minh chứng về sự kết nối mạnh mẽ giữa những người con xa xứ với quê hương. Đồng thời, nó cũng khẳng định cho chân lí: Con người có tổ có tông/ như cây có cội như sông có nguồn. Qua đó, chúng ta thấy rằng, văn hóa - lịch sử không chỉ là những di sản của đất nước mà còn là sợi dây gắn kết con người với cội nguồn, giúp họ hiểu về chính mình và vững bước trong tương lai
N.T.T
--------
1. Xem thêm Nguyễn Ngọc Châu, Cuộc hành trình xuyên thế kỉ XX của một gia đình Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, 2024.
2. Xem thêm Francis, M. Deng, Identity, Deversity, and Constituationlism in Africa, Washington, DC: United States Institute of Peace Press, 2008.
3. Hải Anh - Pauline Guitton, Sống, Nxb Kim Đồng, 2024, tr.3.
4. Hải Anh - Pauline Guitton, Sống, sđd, tr.34.
5. Hải Anh - Pauline Guitton, Sống, sđd, tr.35.
6. Hải Anh - Pauline Guitton, Sống, sđd, tr.3.