. TRỊNH HÒA BÌNH
Ngày còn bé, tôi được mẹ cho một cái hộp thiếc rất đẹp, có nắp đậy, tay xách, kèm theo chiếc khoá rất xinh với cái chìa khoá bé xíu. Hộp được vẽ hình một cô bé gương mặt như thiên thần với từng búp tóc vàng xuộm phủ xoà trên trán và cặp má bầu bĩnh. Cô bé đang ôm một con ngỗng có cái cổ thật là dài và cả hai đang ngước nhìn lên bầu trời xanh trong, nơi có một đàn ngỗng trắng muốt xếp hình chữ V bay về phương xa. Sau này tôi mới biết đó là những con thiên nga, chứ lúc bấy giờ với tôi, một chú bé bốn tuổi, đó chỉ là những con ngỗng. Chiếc hộp này vốn đựng bánh bích quy được sản xuất tại Pháp, được mẹ tôi gửi mua tận Hải phòng năm 1955 trong dịp ba trăm ngày sau đình chiến. Bánh hết, và tôi được cái hộp để đựng đồ chơi. Những chú lính chì be bé, vài hòn bi ve, vài cái khuôn xinh xinh dùng làm bánh, mấy đồng xu cũ rỉ xanh có cái lỗ hình vuông, một con dao bài bé tí tẹo và một vài mảnh gỗ thông… Nhà tôi lúc ấy ở phố DinhLe (Đinh Lễ) theo cách viết tên phố thời đó. Mỗi khi cùng các anh chị chạy ra Bờ Hồ chỗ tháp Hoà Phong chơi, tôi đều tha theo bên mình cái hộp có hình cô bé và con ngỗng ấy.

Minh hoạ: Bùi Quang Đức
Nhưng tác dụng lớn nhất của chiếc hộp lại được phát huy trong mỗi dịp tôi theo mẹ đi dự đám cưới. Mẹ may cho tôi bộ soóc trắng áo liền quần kiểu thủy thủ, với những chiếc sọc màu xanh như bay lên của chiếc cổ áo to bản. Đầu đội mũ calo, chân đi giày bốt, tôi trịnh trọng cắp cái hộp đi theo mẹ. Ngày ấy, các đám cưới đời sống mới chỉ có nước chè và bánh kẹo. Nhưng tất cả khách đều mặc áo dài hoặc complet, rất sang trọng. Và tôi, chú lính thủy, hay được mọi người chuyền tay nhau bồng bế, rồi nhét rất nhiều bánh kẹo vào cái hộp của tôi. Tất nhiên, khi về đến nhà, số bánh kẹo ấy chả mấy chốc mà hết. Tính tôi vốn thảo, mà hai ông anh cùng đám bạn lại là những người ăn dỗ tuyệt vời.
Một lần, trong khi đang nhảy tưng tưng trên chiếc giường lò xo, chờ mẹ trang điểm chuẩn bị đi đám cưới, tôi hỏi “Sao chả thấy nhà mình đám cưới nhỉ”. Anh lớn tôi nói. “Mày ngu thế”. Mẹ tôi bảo. “Anh lớn không được mày tao với em rồi bảo em ngu nhé. Bố mẹ cưới rồi con ạ. Cưới từ dạo còn kháng chiến cơ”. Tôi xịu mặt, không nhảy tưng tưng nữa mà ra ngồi ở mép giường. “Thế mà bố mẹ chả mời con”.
Cuối năm 1965, sau sự kiện Vịnh Bắc bộ, Mĩ ném bom miền Bắc, các cơ quan tỏa về các vùng quê sơ tán. Tôi và anh trai thứ hai về quê ngoại của mẹ, ở tại nhà bác Hiến, anh họ của mẹ tôi. Khi ấy bác Hiến tôi là Trưởng ty Giáo dục tỉnh Vĩnh Phúc. Đó là một ngôi làng rất đẹp với cái tên Hương Gia, cạnh con sông nhỏ nước trong vắt có cái tên Cà Lồ là lạ. Tôi lập tức xin bác Hiến gái được đi chăn bò và nhanh chóng kết bạn với lũ trẻ trong làng. Thằng Bắc có cái đầu trọc tếu là con ông Ba, thằng Toàn gày nhẳng con ông Vỹ. Hai thằng này đều là họ hàng, và tôi phải gọi là anh. Nhưng tôi cóc chịu. Còn thằng Chiến con ông Ngũ nữa. Con trâu nhà thằng Chiến thì hùng dũng với cặp sừng đen bóng là niềm ao ước của tôi. Bốn đứa chúng tôi chơi thân với nhau vì học cùng lớp thày giáo Hiển, cùng những thú vui trêu chó hàng xóm, bơi lội trên sông hoặc đi bắt cua ở những thửa ruộng vừa gặt. Đường làng thì rộng rãi và thẳng tắp, được lát bằng những viên gạch xếp nghiêng. Nghe các bậc cao tuổi kể, ngày xưa trai gái dựng vợ gả chồng đều phải đóng cho làng mấy ngàn gạch để lát đường. Hoà bình lập lại, người ta bảo thế là cổ hủ lạc hậu, nên bỏ. Các đôi vợ chồng khi lấy nhau không phải nộp gạch cho làng nữa.
Một hôm được nghỉ học, tôi trốn ngủ trưa lang thang đi chơi. Mùi hương bưởi quyến rũ khiến bước chân tôi đi theo vào con ngõ vắng, hai bên là những bức tường gạch đã cũ màu đỏ ối. Cuối ngõ là một cái cổng khá đẹp với cánh cổng bằng gỗ. Hương bưởi từ phía sau cánh cổng lan tới. Tò mò, tôi đẩy cánh cổng và bước vào. Bên trái là một dãy nhà mái lợp ngói cong vút, rêu phủ xanh xanh. Một vài cánh cửa sổ khép hờ, nước sơn đã bắt đầu bong ra bởi thời gian, để lộ lớp gỗ nâu nâu. Một khoảng sân rất rộng được lát gạch. Rồi đến một cái giếng sâu hút với cái cần tre cong cong và một cái gầu. Một cây bưởi mọc sát bức tường gạch đang trổ những bông hoa năm cánh màu trắng ngà. Hương bưởi thơm ngát, dìu dịu. Qua cái giếng là một khoảng sân rộng nữa, cũng được lát gạch, sạch bong. Rồi đến mấy gian nhà trên nền cao. Mấy chú chim bồ câu đang gù nắng trên mái nhà. Tôi mải mê ngắm khu nhà và hít hít hương thơm dịu của hoa bưởi. Ngôi nhà thật đẹp, và khoảng sân thật rộng. Nhưng sao lại có hàng gạch xây ngăn đôi cái sân? Từ gian nhà phía trong, cánh cửa chợt mở. Một người đàn ông bước ra, ông ta hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Rồi một thiếu phụ mặc chiếc áo màu nâu non bước ra, đứng phía sau người đàn ông. Họ nhìn tôi, im lặng và quan sát. Tôi đứng giữa khoảng sân, tay mân mê những bông hoa bưởi vừa nhặt, trố mắt nhìn hai người vừa xuất hiện. Hồi lâu, người thiếu phụ cất tiếng hỏi “Cậu là con cái nhà ai?” Phải một lúc tôi mới hiểu bà ta đang hỏi mình “Dạ, cháu con mẹ Ngọc, ở Hà Nội về sơ tán tại nhà bác Hiến”. Người đàn ông gật gù “Ra cậu là con cô giáo”.
Tiếng nói chuyện khiến những người khác trong nhà thò đầu ra. Rồi nhiều người khác nữa. Có cả một bà già mặc váy đen, khuôn mặt nhăn nheo, đầu vấn khăn, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Bà kéo chiếc chổi rơm đặt lên hàng hiên, ngồi lên trên rồi nhổ toẹt bãi nước cốt trầu đỏ ối vào góc sân. Người thiếu phụ khi nãy giờ bế một đứa bé chừng vài tháng tuổi thì ngồi ở hàng hiên bên kia, thản nhiên vén áo rồi trật bầu vú căng mọng cho đứa trẻ bú. Vài đứa trẻ nữa, lít nhít, cả trai lẫn gái xúm xít đứng nhìn tôi, kiểu như nhìn vật thể lạ trong vườn thú. Một đứa bé lấy tay sờ vào cái nẹp xanh xanh ở cổ áo của tôi liền bị con chị nó gạt tay ra. Tôi trân người đứng nhìn lại. Hồi lâu, bà già nhổ thêm miếng cốt trầu nữa, dùng hai ngón tay quệt nơi khoé miệng rồi bảo “À, ra cậu là con cô Ngọc”. Rồi bà bảo con bé lớn nhất “Mày lấy cái đĩa bày lạc luộc, mang ra đây mời cậu xơi”. Rất nhanh chóng, con bé chạy vụt đi. Mọi người tụm lại, người ngồi trên thềm, người ngồi trên những chiếc ghế được làm bằng những quả dừa non đập bẹp phơi khô. Chúng tôi vừa thong thả bóc lạc ăn, vừa nói chuyện. Lũ trẻ giương mắt há miệng nghe tôi kể chuyện Hà Nội. Vài đứa láo nháo liền bị người thiếu phụ cốc nhẹ vào trán “Yên nào, để nghe cậu ấy nói…”
Thì ra, ngôi nhà này vốn là của ông bà ngoại tôi. Năm cải cách ruộng đất, người ta đã chia ngôi nhà cho hai gia đình tá điền ở. Đó là lí do vì sao giữa khoảng sân rộng của ngôi nhà lại có hàng gạch ngăn. Ông ngoại tôi là Phạm Văn Huyên, gốc quê ở Thổ Khối, Gia Lâm. Bà ngoại tôi là Trần Thị Ổn quê ở đúng làng Hương Gia này. Khoảng năm 1938 thì ông ngoại tôi sang Pháp học. Lúc ấy mẹ tôi và dì Tuyết còn nhỏ. Cũng chỉ định đi học vài năm rồi về, thì lại gặp Chiến tranh thế giới thứ Hai, rồi kẹt lại. Sau này, ông có về Việt Nam nhiều lần nhưng không tìm được gia đình. Chúng tôi chỉ biết phong thanh rằng ông định cư ở một đất nước nào đó thuộc châu Phi, rồi mất ở đấy. Còn bà ngoại tôi thì mất từ năm 1951 do ung thư, khi đó mẹ tôi đang ở chiến khu Việt Bắc.
Cha tôi, giáo sư bác sĩ Trịnh Bỉnh Dy, là cán bộ tiền khởi nghĩa. Đầu xuân năm nay cha tôi được Thành ủy Hà Nội tặng Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng. Ông chính là người đã cùng giáo sư Đặng Văn Ngữ khoác ba lô từ chiến khu về Hà Nội năm 1954 để tiếp quản Trường Đại học Y Dược Hà Nội, nay là Trường Đại học Y Hà Nội và Đại học Dược Hà Nội. Ông là một trong những chiến sĩ của Trung đội Phạm Hồng Thái được thành lập sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945 và tham gia trận đánh đồn Nhật ở Tam Đảo ngày 16-17/7/1945. Đã nhiều lần tôi được nghe ông kể chuyện này. Bài viết dưới đây là của cha tôi về sự kiện đó, tôi có chỉnh sửa và biên tập đôi chút.
“Sau đảo chính chừng vài tuần lễ, Nhật đưa một tổ chừng hai mươi lính lên đóng tại một biệt thự của Pháp trên Tam Đảo. Thời gian đó, dưới thị trấn Tam Đảo về phía Vĩnh Yên chừng hơn cây số có một trại lính Bảo an binh Việt Nam chừng hai chục người.
Trưởng đồn Bảo an binh là ông Quản Lân cùng các ông cai đội (Đội Bồng và một vài ông khác) đã thả một tù chính trị là anh Phan và cùng nhau bàn chuyện đánh Nhật giành độc lập. Ngày 15/7/1945, ông Quản Lân xuống dưới xuôi để tuyên truyền vận động lính các đồn khác. Chính quyền Vĩnh Yên biết sự việc nên dự định hôm sau cho quân Nhật xuống tước súng của đội Bảo an binh. Biết tin, đội Bảo an binh quyết định hành động gấp.
Lúc bấy giờ, có một trung đội du kích khoảng hai mươi người đang trú quân ở chân núi Tam Đảo, phía bên Thái Nguyên tại xã Quân Chu. Trung đội được thành lập sau ngày Nhật đảo chính Pháp, lúc đầu được lấy tên là Trung đội Cao Sơn gồm toàn học sinh và có nhiều thành viên là anh em ruột. Tiêu biểu trong đó là các cặp anh em ruột như Trịnh Bỉnh Dy - Trịnh Xuân Kỷ, Thạch Sơn - Tam Sơn và người chú ruột Thanh Sơn. Khoảng tháng 4, tháng 5/1945, đơn vị được đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt tên là Trung đội Tuyên truyền Giải phóng quân Phạm Hồng Thái.
Nửa đêm ngày 15/7/1945, khi được liên lạc báo tin lính Bảo an binh tại Tam Đảo chuẩn bị làm binh biến, dù Trung đội Phạm Hồng Thái nhiều người đi công tác, quân số ở nhà chỉ còn năm sáu người đang đóng tại Quân Chu, gồm đội trưởng Thạch Sơn và các thành viên Thái Bạch, Hồng Tâm (bí danh của Phó Bá Doanh), Bỉnh Dy cùng một hai người nữa, nhưng đội trưởng Thạch Sơn vẫn quyết định lên Tam Đảo ngay. Từ Quân Chu lên Tam Đảo khoảng năm cây số đường bậc thang khoét vào vách núi. Tôi, Trịnh Bỉnh Dy, là người cầm đèn đi đầu dẫn đường. Cách thị trấn Tam Đảo khoảng một cây số thì trời sáng, cũng vừa vặn gặp đội Bảo an binh từ Tam Đảo đi xuống. Đội này vừa đánh đồn Nhật nhưng bị đánh bật ra, có ba người bị thương nhẹ, vẫn đi lại được. Đội trưởng Thạch Sơn quyết định đội du kích sáu người cùng trung đội Bảo an binh quay lại đánh tiếp.
Đội chia làm bốn mũi bao vây xung quanh đồn Nhật. Tôi ở phía trên cùng đội trưởng Thạch Sơn, hai anh Bạch và Hồng Tâm núp trong nhà Bưu điện ở phía dưới, các binh sĩ Bảo an binh vây hai bên trái, phải.
Ta bắt đầu nổ súng, lính Nhật bên ngoài chạy vào trong đồn. Gọi là đồn, chứ thực chất chỉ là biệt thự nghỉ mát của công chức Pháp, không có hào lũy công sự gì cả. Hai bên dùng súng trường bắn nhau suốt ngày. Ta không tiến đánh vào, và Nhật cũng cố thủ bên trong không phản kích ra. Đến chập tối ngày 16/7, anh Thạch Sơn cho người về Lán Than lấy thuốc nổ. Lán Than thực ra là nơi gia đình anh làm nghề đốt củi lấy than, có một cái lán khá lớn và những lò to dùng để hầm than. Tôi rất biết loại thuốc nổ này vì hai năm trước những ngày nghỉ hè tôi hay đến chơi nhà anh Thạch Sơn. Lúc đó, anh chưa lấy bí danh Thạch Sơn mà vẫn dùng tên thường là Huy Minh. Anh vẫn dùng thuốc nổ để đánh cá. Chỉ với một quả nổ nhỏ ở suối đã vớt được một rổ cá đầy. Nay tạo thành mìn đánh Nhật thì có bọc thêm một ít mảnh sắt xung quanh để tăng sát thương.
Hai quả mìn nổ rất to ở tường khu biệt thự. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều ngày 16/7/1945, trời đã rất tối. Lính Nhật nghe tiếng nổ to quá cũng sợ nên tìm cách lợi dụng đêm tối để rời khỏi khu nhà. Tổ chiến đấu của Thạch Sơn và tôi từ trên cao đánh xuống, dễ dàng mở cổng biệt thự, vào trong thì không thấy lính Nhật nào nữa. Tôi cũng không biết họ đã trốn đi đâu. Đội trưởng Thạch Sơn cầm súng xăm xăm dẫn chúng tôi đến khách sạn Metropole của Pháp cách đó vài trăm mét. Đến một căn phòng, Thạch Sơn gõ cửa và nói bằng tiếng Pháp: “Ông Okamoto mở cửa ra!” Thì ra anh Thạch Sơn đã nắm được chỗ ở của viên sĩ quan Nhật chỉ huy đồn. Cửa mở, quân ta xông vào trói nghiến một người đàn ông đang mặc bộ đồ ngủ. Thạch Sơn thấy ông ta nhăn nhó vì đau nên đã thương tình cởi trói. Lợi dụng lúc ta không để ý, ông ta đã bất thình lình đá đổ chiếc đèn bão để trên giường khiến căn phòng tối om rồi tẩu thoát vào màn đêm. Nhưng sáng hôm sau, 17/7/1945, ta lại phát hiện được viên sĩ quan Nhật này cùng những người lính đang trốn trong căn bếp một ngôi biệt thự khác của người Pháp. Những ngôi biệt thự thường được xây khu bếp tách hẳn ra khỏi khu nhà chính, là chỗ ở dành cho gia nhân. Chính người kiều dân Pháp chủ của biệt thự này đã chỉ cho quân ta chỗ đám lính Nhật ẩn náu. Dĩ nhiên là quân Nhật kháng cự dữ dội. Quân ta từ trên cao bắn xuống, giết được khoảng mười lăm tên. Lúc chúng tôi băng qua đường để xung phong thì một quả lựu đạn rừ trong vườn hoa ném ra. Mọi người nằm rạp xuống. Lựu đạn nổ, Thạch Sơn bị một mảnh nhỏ găm vào thái dương, nhưng vẫn kịp lia súng hạ tên lính Nhật vừa ném lựu đạn. Quân ta tiếp tục lùng sục và tiêu diệt nốt những tên đang núp trong vườn hoa.
Lại nói tổ chiến đấu của Thái Bạch và Hồng Tâm thực hiện mũi bao vây ở phía dưới. Khi ta nổ mìn tấn công, một nhóm lính Nhật chạy về phía Bưu điện thì bị Thái Bạch và Hồng Tâm bắn chặn lại. Một lính Nhật chết trên cầu qua suối trước cửa Bưu điện, khẩu trung liên rơi ở trên đường, quân ta thu được và dùng ngay vào chiến đấu. Súng ta bắn từ nhà Bưu điện ra. Quân Nhật bắn vào. Một quả lựu đạn Nhật ném vào nhà Bưu điện làm Hồng Tâm bị thương cả hai chân, nhưng anh vẫn kịp bắn hạ tên lính Nhật ấy.
Trận đánh kết thúc, ta tiêu diệt toàn bộ số lính và sĩ quan Nhật. Lúc đó mới khoảng tám rưỡi sáng ngày 17/7/1945. Bên ta chỉ có Hồng Tâm bị thương nặng ở chân phải cõng đưa về Lán Than. Còn Thạch Sơn và mấy người khác bị thương nhẹ không đáng kể. Ngay sáng hôm ấy thị trấn Tam Đảo đã tổ chức mít tinh chào cờ tại sân bóng. Sau đó những kiều dân Pháp tại Tam Đảo đã cùng người Việt chôn cất lính Nhật cẩn thận.
Đến trưa, một người dân mang biếu một con lợn to cho đội để tổ chức liên hoan. Tôi về nhà trọ ăn cơm với mẹ, cũng được anh em chia phần là một miếng thịt lợn luộc. Ngôi nhà này vốn là biệt thự nghỉ mát của ông Hồ Đắc Điềm, cho gia đình tôi ở trọ trong thời gian tôi và em Trịnh Xuân Kỷ theo trường Albert Saraut sơ tán lên đây. Chính tại đây, tôi đã cùng em trai và người bạn cùng lớp Phó Bá Doanh, tức Hồng Tâm, cùng tham gia đội du kích Phạm Hồng Thái. Phó Bá Doanh chính là con trai của cụ Phó Bá Thuận, Tuần phủ tỉnh Phúc Yên.
Cơm nước xong thì toàn đơn vị cùng anh em Bảo an binh hành quân về chiến khu ở Lán Than bên Quân Chu, Thái Nguyên trước khi lính Nhật từ Vĩnh Yên hành quân lên Tam Đảo trấn áp.
Cuối tháng 7/1945, toàn bộ Trung đội Tuyên truyền Giải phóng quân Phạm Hồng Thái cùng số anh em Bảo an binh được cấp trên gọi lên Tân Trào để học lớp quân chính khoá 2. Sau khoá học, chúng tôi tỏa về các đơn vị để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Dù sau này tôi còn tham dự nhiều cuộc chiến đấu khác trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, chống Tàu, nhưng trận đầu tiên ở Tam Đảo vẫn là trận chiến đấu ấn tượng và nhiều cảm xúc nhất. Tôi viết lại những kỉ niệm để sau này mỗi lần con cháu lên Tam Đảo có thể mường tượng ra những ngày sôi nổi mà hào hùng của lớp cha ông đi trước”.
Về chuyện lấy vợ, cha tôi kể, năm 1948, ông đang công tác ở huyện ủy Đa Phúc. Mọi người ở cơ quan nói “Anh Dy lấy vợ đi, cũng đến tuổi để lập gia đình rồi”. Bà nội tôi lúc đó là trưởng ban tiếp tế của tỉnh Phúc Yên cũng mong thế. Thế là bà tìm gặp bà ngoại tôi, để hỏi xin người con gái lớn. Ông bí thư tỉnh ủy thì bảo “Anh Dy là trí thức, không lấy vợ nông thôn đâu. Mà con gái nhà trí thức ở thành thị, đi kháng chiến mấy năm qua đều lần lượt bỏ nơi tản cư để về Hà Nội hết rồi. Nay bà Hai Bân chọn nhà này là trí thức, giàu có cho con trai. Mình cũng không biết nói thế nào. Thôi kệ thế, chả can thiệp xem sao”. Rồi tỉnh ủy chỉ thị huyện ủy Đa Phúc cử cán bộ khác thay thế phụ trách hai xã Bình Kỳ và Trung Giã để bố tôi có thể về nhà cưới vợ.
Khi bà nội tôi đến gặp, lúc đầu bà ngoại tôi không đồng ý. Vì mẹ tôi đã nói với bà ngoại rằng “Việc hôn nhân là của con phải do con quyết định. Mẹ hãy để con được gặp nhà người ta”.
Khi đó, mẹ tôi đang phụ trách Đội Thiếu niên kháng chiến của xã Phú Cường. Mẹ tôi kể sớm hôm ấy có một bà khuôn mặt vuông chữ điền với cặp lông mày chổi xể, dáng nhanh nhẹn, khoác chiếc tay nải màu nâu, chân đi đôi hài vải màu xám, bộ y phục cũng màu xám, giống như một người Mán trên mạn ngược. Người đàn bà hỏi thăm nhà bà cả Huyên, tức bà ngoại tôi. Bà ngoại tôi cũng sợ khi nhìn thấy một người như vậy. Rồi nói chuyện, mới biết người ấy đi hỏi vợ cho con. Đấy là bà nội của tôi, người đàn bà goá từ năm hai mươi lăm tuổi mà vẫn ở vậy để bươn chải nuôi con. Sau này, khi lớn lên, tôi có cảm giác mẹ tôi cũng học được từ bà nội tôi tính quyết đoán, đảm lược, cần cù và tiết kiệm.
Một sớm mai chớm Hạ, cha tôi từ nhà mình tại ấp Thanh Tước tìm về nhà mẹ tôi ở thôn Hương Gia. Tôi mường tượng thấy những cánh đồng sóng lúa đang nhấp nhô đuổi nhau trong gió. Một người trai trẻ áo bỏ trong quần gọn gàng, vai đeo túi nhỏ, tay dắt chiếc xe đạp hỏi bà cụ bán nước ở cây đa đầu làng lối về nhà cô Ngọc con ông bà Cả Huyên. Lũ trẻ con hò reo chạy theo chiếc xe đạp của người thanh niên. Một thiếu phụ ra mở cổng, đôi mắt vui mừng nhưng kín đáo dò xét. Đưa khách vào phòng, bà gọi cô giúp việc đun ấm nước. Rồi bà đích thân pha một ấm trà, trang trọng mời. Mùi trà thơm ngát trong phong cảnh thanh bình làm người trai hồi hộp. Một bức tranh vẽ phong cảnh khá lớn được lồng khung kính trang trọng treo trên bức tường đối diện nơi khách ngồi. Xế trong góc phòng khách là bức tượng một thiếu nữ mặc áo dài với chiếc nón chao nghiêng. Mãi sau này, chàng trai mới biết tranh và tượng là tác phẩm từng được trưng bày ở nhà Đấu xảo, do ông nội của nàng sáng tác. Người thiếu nữ được mẹ cho phép từ phòng riêng bước sang. Người thiếu phụ nói. “Đây là anh Dy, con trai bà Hai Bân ở bên ấp Thanh Tước”. Nàng chắp hai tay trước ngực, cúi mình chào khách rồi xin phép quay ra. Thoáng sau cánh cửa, bóng một cô bé có mái tóc hỉ nhi và cặp mắt tò mò nhìn chàng trai. Có lẽ đó là em gái của nàng. Vài phút trôi qua, gió đưa qua ô cửa mùi thơm dịu của hương bưởi. Rồi nàng xuất hiện, đi đôi guốc cao gót, tóc búi gọn lệch sang một bên, và tấm áo dài màu hồng may rất khéo bó gọn lấy vòng eo và bộ ngực thanh tân. Nàng tiếp thêm trà cho chàng, rồi sẽ sàng vén áo ngồi xuống ghế đối diện. Đôi mi dài, cặp mày lá liễu, giọng nói đặc trưng của người phố thị và mùi Chanel thoang thoảng làm chàng ngây ra chẳng biết nói gì nữa.
Đám cưới của bố mẹ tôi diễn ra sau đó khoảng nửa tháng. Không làm đám rước linh đình và ăn tiệc to như thường lệ. Chỉ đơn giản một tối gặp mặt, ăn kẹo, uống nước chè. Thế nhưng trẻ em đến xem rất đông. Cả người lớn nữa. Người ta chưa gặp một đám cưới đời sống mới bao giờ. Bà già nhổ cốt trầu và người thiếu phụ cho con bú chính là những người đã chứng kiến đám cưới của bố mẹ tôi. Người ta cũng tổ chức một cuộc hái hoa dân chủ. Ông phó chủ tịch tỉnh, ông bí thư tỉnh và tám nhân viên của tỉnh uỷ tham dự hái hoa để tặng cô dâu chú rể. Rồi họ lại sang dự một đám cưới khác trong thôn, cũng là cán bộ Việt Minh.
Thấm thoát đã 77 năm từ ngày trọng đại ấy của gia đình tôi. Mẹ tôi đã an nghỉ cách đây bốn chục năm. Bố tôi sinh năm 1926, nay đã 99 tuổi. Ngày 16/8 là sinh nhật bố. Cũng là mùa Vu Lan. Tôi viết bài này cũng là một nén nhang cho mẹ tôi, và để mừng sinh nhật bố tôi.
T.H.B