Thứ Tư, 05/11/2025 16:11

Đổi mới giáo dục hướng đến xây dựng con người trí thức hiện đại

Rất nhiều yêu cầu, nhiều nội dung giáo dục phải tiến hành từ gia đình, các tổ chức đoàn thể, xã hội… cần có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội... (TS NGUYỄN THANH TÂM thực hiện)

Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là tương lai dân tộc. Quốc sách ấy thể hiện tầm nhìn chiến lược, triết lí giáo dục ra sao, được nghiên cứu tổ chức, vận hành và hướng đến mục tiêu như thế nào, phải nhìn vào thực tiễn dạy và học, đặc biệt là nhìn vào sản phẩm giáo dục (con người). Trước những vận động mạnh mẽ, mau lẹ của thời đại, giáo dục Việt Nam cũng cần phải đổi mới. Đổi mới căn bản toàn diện chất lượng - hiệu quả giáo dục, với trọng tâm xây dựng những năng lực, phẩm chất tốt đẹp cho con người Việt Nam, vừa kế thừa bản sắc tiên tiến đậm đà của dân tộc, vừa thích ứng với thời đại mới là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đầu năm học mới 2025 - 2026, Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã có cuộc trò chuyện với PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới - môn Ngữ văn, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), xoay quanh việc đổi mới giáo dục, xây dựng chương trình và thực hiện các mục tiêu giáo dục trọng tâm.

- Thưa PGS.TS Đỗ Ngọc Thống! Xin được bắt đầu cuộc trò chuyện cùng ông từ vấn đề có tính chất cốt lõi nhất: Con người là sản phẩm của giáo dục. Chúng ta từng được biết đến những mô hình con người trong quá khứ như là sản phẩm của giáo dục: Nho sĩ - trí thức phong kiến (bất dị Trung Hoa), trí thức Tây học (Pháp - Việt)… Vậy, nếu cần một định danh, thì mô hình con người mà nền giáo dục hiện tại chúng ta hướng đến là gì, thưa ông?

+ Trước hết, tôi thấy cần nói rõ, thực ra con người là sản phẩm của xã hội. Nói như C.Mác: “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Nói “con người là sản phẩm của giáo dục” cũng không sai, nhưng cần hiểu giáo dục theo nghĩa rộng. Tức không chỉ nhà trường giáo dục, dù nhà trường chiếm một vai trò rất quan trọng. Rất nhiều yêu cầu, nhiều nội dung giáo dục phải tiến hành từ gia đình, các tổ chức đoàn thể, xã hội… cần có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Có nhiều vấn đề giáo dục, mình nhà trường không làm được. Và vì vậy, kết quả giáo dục con người không nên đổ hết cho nhà trường. Thứ hai, nêu một định danh về mô hình con người cho mỗi thời kì giáo dục là một việc rất khó, dễ gây tranh cãi. Tuy nhiên nếu như có thể nói “mô hình con người trí thức” trong quá khứ như trên… thì mô hình con người trí thức mà nền giáo dục hiện nay đang hướng đến, tôi nghĩ có thể định danh là “trí thức hiện đại”. Nội hàm của khái niệm “trí thức hiện đại” là gì thì rất phong phú, phụ thuộc vào những cách nhìn khác nhau. Câu trả lời sẽ có những nội dung rất thú vị nhưng vượt ra khỏi khuôn khổ của cuộc trò chuyện trên tạp chí.

- Những phẩm chất (Yêu nước, Nhân ái, Chăm chỉ, Trung thực, Trách nhiệm), năng lực (Tự chủ và tự học, Giao tiếp và hợp tác, Giải quyết vấn đề và sáng tạo) cùng các năng lực đặc thù - cốt lõi (Năng lực ngôn ngữ, Năng lực tính toán, Năng lực khoa học, Năng lực công nghệ, Năng lực tin học, Năng lực thẩm mĩ, Năng lực thể chất)… được đề xuất - xây dựng trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể có căn cứ từ thực tiễn hay lí luận nào về con người Việt Nam không, hay chỉ là những đề xuất chung mà mọi nền giáo dục của mọi quốc gia đều có thể áp dụng, thưa ông?

+ Yêu cầu “phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực” là sự tiếp nối truyền thống xây dựng con người toàn diện có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên của dân tộc. Để xác định các phẩm chất và năng lực đã nêu trong Chương trình GDPT tổng thể, Ban phát triển chương trình đã dựa vào nhiều căn cứ quan trọng. Các phẩm chất và năng lực nêu trong Chương trình tổng thể 2018 phải thông qua sự xem xét và được sự đồng tình của Hội đồng thẩm định quốc gia, bao gồm nhiều nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực, nhiều ngành trong cả nước.

Nói một cách vắn tắt thì 5 phẩm chất chủ yếu quy định trong Chương trình tổng thể dựa trên các nghị quyết của Trung ương Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết 5 khoá 8), xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam (Nghị quyết 33 khoá 11). Còn việc xác lập các năng lực cốt lõi thì phải dựa trên tài liệu của một số tổ chức giáo dục quốc tế (OECD, EU, WEF) và chương trình của một số quốc gia có nền giáo dục tiên tiến, đối chiếu với thực tiễn Việt Nam.

Về cách làm, từ các yêu cầu nêu trong các nghị quyết của Đảng, ban soạn thảo phải đối chiếu, so sánh, gộp một số đặc tính trùng nhau hoặc gần nhau vào một từ khoá để rút ra các phẩm chất chung. Đó không phải là “những đề xuất chung mà mọi nền giáo dục của mọi quốc gia đều có thể áp dụng.”

- Tinh thần giáo dục mới lấy người học làm trung tâm, thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện cả về chất lượng, hiệu quả giáo dục… Tuy nhiên, học sinh của chúng ta bây giờ đã khác, môi trường văn hóa - xã hội cũng khác. Vậy thì, thầy cô giáo, cả những người biên soạn sách giáo khoa, xây dựng chương trình giáo dục… có cần phải thay đổi “căn bản, toàn diện” không, thưa ông?

+ Có thể khẳng định ngay các thầy cô giáo và các tác giả biên soạn sách giáo khoa (SGK) rất cần thay đổi “căn bản, toàn diện”. Vì giáo dục nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng cần bám sát và hướng tới đối tượng cũng như gắn với bối cảnh cụ thể. Trước khi xác định dạy cái gì, dạy như thế nào thì đã phải trả lời câu hỏi dạy cho ai, dạy trong bối cảnh nào?... Tuy nhiên, nhiệm vụ của giáo dục cũng phải hướng đến việc giúp người học có được những hiểu biết phổ thông, cơ bản, nền tảng về kho tàng tri thức của dân tộc và nhân loại (gọi là học vấn phổ thông). Để đáp ứng yêu cầu giáo dục ấy, người giáo viên cũng như tác giả biên soạn SGK buộc phải chú trọng cả hai. Một là cần chú ý đối tượng học sinh hiện nay đã rất khác, không chỉ khác về tâm - sinh lí mà còn khác về nhiều điểm trong hệ giá trị, liên quan đến thời đại và khoảng cách thế hệ như quan niệm thẩm mĩ, “gu” nghệ thuật, những tri thức về văn hóa, sự tác động của khoa học - công nghệ, truyền thông… Hai là bảo đảm đúng nguyên tắc tiếp nhận tác phẩm văn học. Chẳng hạn cần lưu ý học sinh hai yêu cầu: thứ nhất, tác phẩm văn học luôn hàm chứa những giá trị tự thân, bất biến như là hằng số tiếp nhận. Với một văn bản cần đọc ra, đọc đúng thông điệp cơ bản, vốn có mà ai đọc, xưa cũng như nay đều hiểu chung như thế. Thứ hai, việc khám phá, đọc hiểu, phân tích một văn bản, nhất là văn bản văn học luôn là “một đề án mở”. Do bị chi phối bởi các yếu tố thời đại, bối cảnh lịch sử cụ thể và đặc biệt trình độ, kinh nghiệm và sự từng trải của người đọc sẽ dẫn đến các kết quả đọc hiểu văn bản có thể khác, thậm chí ngược nhau. Đấy chính là cái khó và yêu cầu cao của việc dạy học Ngữ văn trong bối cảnh và với đối tượng mới.

- Cải cách giáo dục là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhưng những bộn bề của việc đổi mới - cải cách, thay sách, thay đổi chương trình… có làm dấy lên lo ngại về việc chúng ta chưa hình dung một cách rõ rệt mô hình con người mà nền giáo dục mới hướng đến không, thưa ông?

+ Trước hết cần phân biệt cải cách giáo dụcđổi mới giáo dục. Cải cách giáo dục thường gắn liền với sự thay đổi thể chế, kéo theo sự thay đổi của toàn bộ nền giáo dục, từ quan điểm, triết lí đến chủ trương chính sách; từ quy mô, hệ thống giáo dục (số cấp và lớp học) đến chương trình, SGK và cơ sở vật chất thiết bị dạy học,… Còn đổi mới giáo dục chỉ là thay đổi một số nội dung hay phương diện nào đó của nền giáo dục, thường là đổi mới chương trình và SGK. Theo đó, từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, nước ta đã có 3 lần cải cách giáo dục vào những năm 1951, 1956 và 1979. Sau đó có 2 lần đổi mới chương trình và SGK GDPT là Chương trình 2006 (theo NQ 40 của QH 10) và Chương trình 2018 (theo NQ 88 của QH 13).

Mỗi lần cải cách giáo dục hay đổi mới chương trình và SGK đều có những bề bộn, những khó khăn và thách thức. Tuy nhiên khó khăn và thách thức ấy phần lớn là do khâu triển khai thực hiện thiếu đồng bộ. Còn mục tiêu, khi đề xuất đổi mới GDPT thì việc đầu tiên phải xác định được chương trình nhằm đào tạo ra những con người như thế nào cho đất nước. Ví dụ với Chương trình 2018, mục tiêu của đổi mới được xác định là tạo ra thế hệ học sinh “biết làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại”.

- Từ góc độ một người quản lí, sâu sát với việc xây dựng - triển khai chương trình, thường xuyên đảm nhiệm việc tập huấn cho giáo viên về chương trình, mục tiêu, định hướng, phương pháp tổ chức dạy - học, đánh giá… ông thấy Chương trình GDPT 2018 (bộ môn Ngữ văn) so với chương trình cũ có ưu điểm gì?

+ Có thể nêu mấy ưu điểm chính của Chương trình Ngữ văn 2018 như sau: Thứ nhất, chuyển từ mục tiêu chủ yếu chạy theo nội dung, trang bị số lượng kiến thức, sang phát triển phẩm chất và năng lực, đặc biệt là năng lực giao tiếp với các hoạt động chính là đọc hiểu, viết, nói và nghe. Thông qua các hoạt động này mà phát triển năng lực và giáo dục tư tưởng, phẩm chất... Thứ hai, chuyển từ quan niệm chương trình “khép kín” sang chương trình theo “hướng mở” nhằm khuyến khích sáng tạo, cho phép vận dụng một cách linh hoạt. Chương trình Ngữ văn 2018 chỉ quy định các yêu cầu cần đạt về năng lực đọc, viết, nói, nghe cho mỗi lớp; không quy định nội dung các tác giả tác phẩm, ngữ liệu cụ thể; ưu tiên tự chọn, chỉ bắt buộc một số kiến thức cơ bản, thiết yếu cho toàn bộ chương trình để bảo đảm nền tảng học vấn phổ thông. Định hướng này đã tạo ra sự phong phú, đa dạng trong hoạt động dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Thứ ba, chuyển từ việc giáo viên lên lớp chủ yếu giảng cho học sinh nghe về cái hay, cái đẹp của tác phẩm sang hướng dẫn các em biết tự đọc, tự khám phá, phát hiện ra nội dung, ý nghĩa của mỗi văn bản, tác phẩm. Tức hình thành cho học sinh cách đọc, cách viết, cách nói, nghe có hiệu quả... Thứ tư, chuyển từ việc kiểm tra trí nhớ, chỉ nhắc lại những gì đã học, khi làm bài chép lại tài liệu, văn mẫu đã thuộc... sang kiểm tra năng lực đọc hiểu, năng lực viết bài văn; kiểm tra sự vận dụng kiến thức văn học và tiếng Việt vào bối cảnh mới thông qua các ngữ liệu mới, không có trong sách giáo khoa.

- Và dĩ nhiên, những nhược điểm, bất cập cũng tồn tại. Ông có thể chia sẻ đôi chút về khía cạnh này trong chương trình GDPT mới?

+ Cần phân biệt hạn chế của chương trình và hạn chế của việc triển khai thực hiện chương trình như biên soạn, lựa chọn SGK, cơ sở vật chất, phương pháp và thiết bị dạy học, chỉ đạo chuyên môn và kiểm tra đánh giá… Ở đây chỉ nêu một số hạn chế của Chương trình Ngữ văn 2018. Thứ nhất, có một số yêu cầu cần đạt của chương trình nêu còn khái quát, chưa cụ thể theo hướng chuẩn hóa chương trình để làm cơ sở cho việc biên soạn nội dung trong các bộ SGK một cách thuận lợi và thống nhất trong kiểm tra đánh giá. Ví dụ cần cụ thể hóa một số nội dung của các khái niệm như nhân vật trữ tình, chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình, điểm nhìn toàn tri, hạn tri, tứ thơ,… Thứ hai, chương trình mở và chỉ dừng lại ở các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp nên việc phân bổ nội dung và tiến độ dạy học cho các bộ sách không thống nhất, dẫn đến việc lựa chọn thể loại văn bản dạy đọc hiểu và ra đề kiểm tra đánh giá cho các kì thi chung ở địa phương có dạy nhiều bộ sách khác nhau gặp khó khăn. Nghĩa là cần có phần hướng dẫn thực hiện chi tiết và cụ thể hơn. Thứ ba, do bối cảnh, Chương trình 2018 được xây dựng trong một thời gian ngắn, việc triển khai thực hiện lại diễn ra rất lâu nên một số nội dung đã bị lạc hậu, có thể bỏ; trong khi lại xuất hiện một số yêu cầu mới cần bổ sung, nhất là trước sự biến đổi rất nhanh của thực tế cuộc sống và sự phát triển thần tốc của khoa học, công nghệ thông tin truyền thông. Yêu cầu cập nhật, phát triển chương trình thường xuyên và mong muốn giữ sự ổn định lâu dài trở nên mâu thuẫn và rất khó giải quyết. Ngoài ra một số yêu cầu cần đạt của chương trình chưa thiết thực, thiếu tính khả thi so với điều kiện thực tế của một số địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

- Chương trình giáo dục mới có đặt ra vấn đề giảm tải cho học sinh không, thưa ông? Nếu có thì cụ thể là giảm tải những gì?

+ Đây chính là một trong những yêu cầu được nêu lên ngay khi xây dựng chương trình. Với chương trình Ngữ văn, yêu cầu giảm tải thể hiện ở một số phương diện sau: Thứ nhất, không chạy theo khối lượng nội dung tác phẩm, chương trình tổ chức dạy học đọc hiểu theo thể loại và luyện viết một số kiểu văn bản thông dụng. Mục tiêu là hình thành cho học sinh cách đọc, cách viết nên không cần thiết phải dạy thật nhiều văn bản, mà cần hướng dẫn học sinh phương pháp và thực hành đọc, viết nhiều hơn. Thứ hai, về đọc hiểu chỉ tập trung chính vào 3 loại lớn: văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn bản thông tin. 3 loại văn bản này được lặp lại và nâng cao dần giữa các lớp. Các thể loại cụ thể như truyện, thơ, kí, kịch cũng lặp lại ở tất cả các lớp nhất là từ THCS trở đi. Yêu cầu đọc hiểu cũng lặp lại, vì thế học sinh được làm quen liên tục, dần dần qua nhiều lớp khác nhau. Lớp dưới có thể đọc hiểu truyện chưa tốt, sẽ tiếp tục được rèn luyện ở lớp trên, chứ không phải chỉ qua một lần là xong. Thứ ba, do tập trung dạy cách nên không cần ôm đồm chạy theo nội dung. Chẳng hạn, toàn bộ lớp 10 yêu cầu đọc hiểu chỉ tập trung vào mấy thể loại: sử thi, thần thoại, truyện (nói chung), thơ (nói chung), chèo hoặc tuồng, văn bản nghị luậnvăn bản thông tin. Về nguyên tắc chỉ cần dạy mỗi thể loại thông qua một văn bản ngữ liệu tiêu biểu để học sinh nắm được cách đọc. Như thế chỉ cần 4-5 văn bản là hoàn thành yêu cầu đọc hiểu văn bản văn học của toàn bộ lớp 10. Tuy nhiên để trang bị cho học sinh những hiểu biết về thành tựu văn học dân tộc và thế giới, cũng là để luyện tập cách đọc thì cần cung cấp thêm một số tác phẩm khác tùy theo từng thể loại. Thứ tư, yêu cầu dạy viết và nói, nghe chủ yếu thông qua thực hành, rất ít lí thuyết. Nội dung ngữ liệu cho viết và nói, nghe phần lớn lại liên quan đến phần đọc hiểu, lặp lại nội dung đọc hiểu, vì thế vừa không thêm nội dung, vừa góp phần củng cố lại kết quả đọc hiểu. Có 6 kiểu bài thực hành viết, nhưng với cấp THPT, chủ yếu rèn luyện viết kiểu bài nghị luận… Thứ năm, các kì đánh giá, kiểm tra, thi cử quan trọng, không chạy theo số lượng các văn bản tác phẩm đã học trong SGK mà chỉ yêu cầu đọc hiểu và viết về một thể loại hoặc kiểu văn bản đã học. Tức vận dụng cái đã học vào bối cảnh mới. Vì thế học sinh không mất thời gian công sức học thuộc hoặc chuẩn bị hàng trăm bài văn mẫu khác nhau, chỉ cần nắm được cách đọc và cách viết một văn bản…

- Nhưng, cứ nhìn vào việc giáo viên và học sinh phải vật lộn với đòi hỏi ngữ liệu ngoài SGK, tôi có cảm giác không phải họ được giảm tải, mà lại tăng tải thì đúng hơn. Ý kiến của ông như thế nào?

+ Nếu có hiện tượng ấy là do giáo viên và học sinh chưa nắm được cách học mới thôi. Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng đã có hướng dẫn về đánh giá (Công văn 3175), không phải bài kiểm tra nào cũng phải có ngữ liệu mới. Với bài kiểm tra thường xuyên và giữa kì, giáo viên vẫn cần kiểm tra các văn bản - tác phẩm đã học. Với bài kiểm tra cuối kì, cuối cấp nên sử dụng ngữ liệu mới, vì thế có thể lấy ngay văn bản trong 2 bộ SGK khác để làm ngữ liệu cho đề thi. Chỉ đến kì thi cuối (vào lớp 10 hoặc tốt nghiệp THPT) thì mới cần văn bản ngữ liệu không có trong tất cả các bộ SGK. Nếu thực hiện đúng như thế thì không có gì phải vất vả “vật lộn với đòi hỏi ngữ liệu ngoài sách giáo khoa”. Chưa nói, theo tôi việc giáo viên và học sinh tìm đọc thêm các văn bản ngoài SGK cũng là việc làm tốt trong dạy học hơn là chỉ cần tập trung dạy và học một số tác phẩm do chương trình quy định sẵn.

- Có hay không tình trạng, vì kiểm tra đánh giá lấy ngữ liệu ngoài SGK, nên việc dạy các văn bản - ngữ liệu trong SGK bị lơ là, xem nhẹ từ phía người dạy? Từ phía cơ quan có chức năng quản lí và tổ chức thực hiện chương trình, Bộ Giáo dục & Đào tạo có kiểm tra - giám sát hay nắm bắt được thực trạng này không, thưa ông?

+ Tôi cũng đã được nghe phản ánh về hiện tượng nêu trên. Tuy nhiên cần thấy đó chỉ là hiện tượng của một số ít giáo viên, không phải số đông. Về phía cơ quan quản lí và chỉ đạo dạy học, Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng đã biết và có những uốn nắn kịp thời bằng nhiều cách, như bằng công văn hướng dẫn thực hiện năm học mới hoặc bằng các quy định về kiểm tra thường xuyên và định kì như tôi vừa nêu ở trên.

- Một thực tế khác, song hành với việc dạy, vì biết việc thi cử không sử dụng văn bản - ngữ liệu trong SGK nên học sinh không tập trung học trong SGK, và đổ đi học thêm ở các trung tâm, “cày xới” các ngữ liệu ngoài SGK. Điều này vô hình trung đã làm cho các bộ SGK dường như bị vô hiệu hóa. Ông đánh giá vấn đề này thế nào?

+ Vấn đề này thực ra cũng là vấn đề vừa nêu trên. Cũng có hiện tượng ấy, nhưng chỉ là số ít và diễn ra trước kì thi vào 10 cũng như kì thi tốt nghiệp 2025 vừa qua. Sau hai kì thi này, cả giáo viên và học sinh sẽ hiểu ra, việc đổ đi học thêm ở các trung tâm, dồn sức “cày xới” các ngữ liệu ngoài SGK là không có ý nghĩa gì cả. Tất cả mọi hình thức học thêm chỉ có ý nghĩa khi giáo viên và học sinh tập trung hình thành, phát triển năng lực đọc hiểu và viết; tức tập trung vào cách đọc, cách viết chứ không phải ngữ liệu trong hay ngoài SGK. Ngữ liệu trong SGK với giáo viên là cũ, nhưng với học sinh đều là văn bản mới cả. Hơn nữa dùng văn bản trong SGK còn để lấy điểm kiểm tra thường xuyên và giữa kì để cuối năm có kết quả môn học tốt. Kết quả này sẽ có ý nghĩa (chiếm 50%) trong việc xét tốt nghiệp. Do vậy hãy để thực tế điều chỉnh những cách hiểu sai ấy.

- Chương trình GDPT mới hướng đến việc tránh học tủ, học mẫu, nhưng theo quan sát của tôi, nó lại tạo nên một dạng học tủ, học mẫu khác. Đó là việc cả người dạy, người học đều cố gắng “nằm lòng” những mẫu câu trả lời, cách viết đoạn văn, bài văn rập khuôn (cũng là hệ quả của việc xây dựng ma trận và cấu trúc đề thi được minh họa trước). Chắc ông cũng quan sát thấy hiện tượng giáo viên dạy cho học sinh: tác phẩm A của nhà văn B… cùng những diễn giải sáo rỗng, giống hệt nhau cho các giá trị (nội dung tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật đặc sắc - độc đáo, tác giả tài năng tâm huyết…). Đó là một dạng tủ - mẫu mới. Ông nghĩ như thế nào về thực trạng này?

+ Vấn đề này khá phức tạp. Tôi cũng đã nghe và đọc được một số ý kiến tương tự như thế. Trong khuôn khổ cuộc trò chuyện này, chỉ xin tập trung nêu mấy ý sau: Thứ nhất, Bộ Giáo dục & Đào tạo cần “xây dựng ma trận và cấu trúc đề thi được minh họa trước”. Vì nhiều lí do, trong đó có việc đáp ứng yêu cầu của Chương trình 2018. Về đánh giá, chương trình yêu cầu: “Học sinh cần được hướng dẫn tìm hiểu để có thể nắm vững mục tiêu, phương pháp và hệ thống các tiêu chí dùng để đánh giá...” (Chương trình Ngữ văn 2018, trang 85). Chương trình 2018 chủ trương không đánh đố học sinh, công khai tất cả các tiêu chí, yêu cầu và cách thức đánh giá. Hơn nữa để chỉ đạo dạy học thống nhất trong toàn quốc, để các nhà trường có phương hướng chung về đánh giá, thi cử… thì Bộ Giáo dục & Đào tạo cần có những yêu cầu mang tính định hướng. Những quy định này cần thông báo sớm, rộng rãi để tất cả học sinh, các nhà trường trong cả nước không bị động, bất ngờ; có phương hướng dạy và học... Thứ hai, theo tôi các quy định về ma trận, cấu trúc đề thi minh họa mà Bộ công bố đã đáp ứng đúng yêu cầu của chương trình; cụ thể: đánh giá năng lực đọc và viết; các văn bản ngữ liệu mới, không có trong SGK; học sinh chỉ có thể tự suy nghĩ và trả lời câu hỏi, viết đoạn và bài văn bằng lời văn của mình, không chép được văn mẫu… Tất nhiên với những đề thi cụ thể vẫn cần phải suy nghĩ để biên soạn đề thi tốt hơn. Thứ ba, đúng là đề thi về đọc hiểu và viết có những yêu cầu chung, có thể khái quát thành mô hình chung để dạy cách thức, phương pháp đọc và viết… Nhưng trước một đề cụ thể thì học sinh không thể làm bài bằng cách trả lời các câu chung chung như thế được. Phân tích đánh giá một tác phẩm thì đúng là phải nêu được các giá trị nội dung và nghệ thuật, nhưng không thể ở tác phẩm nào cũng chỉ nêu “nội dung tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật đặc sắc - độc đáo, tác giả tài năng tâm huyết…” mà phải chỉ ra cụ thể nội dung, nghệ thuật của văn bản ấy sâu sắc, độc đáo ở chỗ nào. Vì mỗi tác phẩm theo một thể loại, có nội dung và hình thức nghệ thuật khác nhau… Các đơn vị tiếng Việt cũng thế, học sinh được học vai trò và tác dụng của biện pháp tu từ nào đó, nhưng khi làm bài phải chỉ ra tác dụng cụ thể của biện pháp ấy trong việc biểu đạt nội dung cụ thể gắn với một văn bản cụ thể chứ không thể nêu tác dụng chung chung được…

- Đi sâu hơn vào việc dạy văn - học văn ở nhà trường hiện nay, ông có thể chia sẻ thêm từ quan sát thực tế của mình hoặc phản hồi của chính giáo viên - học sinh về vấn đề này được không?

+ Về vấn đề này, tôi chỉ thấy cần nhắc nhở giáo viên Ngữ văn về yêu cầu đọc hiểu và dạy đọc hiểu cũng như dạy viết cần sâu hơn. Về đọc hiểu, không nên chỉ dừng lại ở bề nổi của văn bản, chỉ luyện cho học sinh nhận biết các yếu tố hình thức của tác phẩm một cách rời rạc, manh mún… Vẫn là 3 mức độ (biết, hiểu, vận dụng) nhưng cách hỏi cần chú ý tính hệ thống và nghĩa lí của câu hỏi, phù hợp với đối tượng. Câu hỏi trong đề cũng như trong khi dạy học cần đa dạng, phong phú, tránh được những câu hỏi ít ý nghĩa, biết chẳng để làm gì… Một đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn có 5 câu hỏi thì cần cân nhắc để 5 câu ấy có hệ thống, giúp cho việc hiểu đúng, hiểu sâu thông điệp của tác phẩm… Trong trường hợp các câu hỏi đọc hiểu chưa khai thác hết độ sâu của văn bản thì cần nêu yêu cầu ấy vào phần viết để đánh giá chính xác hơn năng lực cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm của người học… Về viết, cần tập trung dạy cho học sinh cách nghĩ, cách nhìn nhận đánh giá của riêng cá nhân và cách diễn tả, thể hiện những suy nghĩ của mình một cách sáng sủa, từ đúng đến hay, có sáng tạo càng tốt. Khi ra đề phần viết, cần suy nghĩ cách nêu vấn đề từ câu dẫn đến câu lệnh sao cho vừa rõ ràng, chính xác, vừa gây được cảm hứng cho người viết bài; tránh cứng nhắc, mòn sáo, rắc rối, phức tạp, mơ hồ, hiểu theo nhiều cách…

- Vâng! Từ góc nhìn của bộ môn Ngữ văn trong Chương trình GDPT 2018, ông có tin những phẩm chất - năng lực (đã nêu ở trên) sẽ được hình thành nơi học sinh hay không? Dấu hiệu của niềm tin ấy là gì?

+ Tôi là người đã từng trực tiếp dạy Ngữ văn ở trường phổ thông, sau đó vừa nghiên cứu, tham gia thiết kế chương trình, vừa biên soạn SGK Ngữ văn, vừa bồi dưỡng giáo viên cho nhiều tỉnh thành trong cả nước suốt hơn 40 năm qua. Với kinh nghiệm và hiểu biết về việc dạy văn trong nhà trường, tôi tin Chương trình Ngữ văn 2018 sẽ đem lại một sức sống mới. Niềm tin ấy bắt đầu từ việc tin vào những đổi mới của chương trình, tin vào xu thế quốc tế; tin vào thực tế đã triển khai và những ý kiến phản hồi của nhiều giáo viên và học sinh trong cả nước, nhất là sau kì thi tốt nghiệp THPT (2025) vừa qua. Tuy nhiên tôi cũng hiểu rất rõ những khó khăn, hạn chế từ nhiều yếu tố khi thực hiện Chương trình Ngữ văn 2018, trong đó có chất lượng, trình độ và năng lực thực sự của tác giả SGK, của giáo viên, cán bộ chỉ đạo bộ môn và một số lãnh đạo các cấp… Hi vọng những hạn chế ấy sẽ dần được khắc phục.

- Xin cảm ơn PGS.TS Đỗ Ngọc Thống về cuộc trò chuyện!

TS NGUYỄN THANH TÂM