Từ ngàn xưa, trong quá trình mở cõi và gìn giữ giang sơn, cha ông ta đã đặc biệt chú trọng đến công việc đại sự bảo vệ biên cương. (Trung tá, nhà phê bình PHẠM VÂN ANH)
Từ ngàn xưa, trong quá trình mở cõi và gìn giữ giang sơn, cha ông ta đã đặc biệt chú trọng đến công việc đại sự bảo vệ biên cương. Và như một lẽ hiển nhiên, biên giới được coi là một phạm trù thiêng liêng trong tâm thức mọi con dân đất Việt. Một số làn điệu ca trù, chèo, vọng cổ… từ xa xưa cũng đã dựng các tuồng tích đề cập đến vấn đề biên giới, về tình nghĩa giữa hậu phương và người đi trấn thủ chốn địa đầu. Trong suốt thời kỳ đấu tranh cách mạng, cảm hứng văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng bắt nguồn từ tình yêu quê hương đất nước và hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã luôn tạo nên những trường ca, tổ khúc thơ và hàng vạn bài thơ có giá trị và tạo nên một dòng thơ cách mạng. Trong kho tàng thơ đồ sộ được sáng tác trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đề tài biên giới, nhân dân các dân tộc nơi biên giới và người lính biên phòng chiếm một vị trí đáng kể với những áng thơ hào dùng, tạo được cảm xúc lắng đọng, sâu sâu sắc trong lòng độc giả cả nước.
Mùa xuân năm 1959 đã lưu một mốc son đáng nhớ trong đường lối chiến lược của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và cũng là mốc son về sự ra đời, trưởng thành của một lực lượng được sinh ra để gắn bó với miền biên ải. Đoàn kết cảnh giác/ Liêm chính kiệm cần/ Hoàn thành nhiệm vụ/ Khắc phục khó khăn/ Dũng cảm với địch/ Vì nước quên thân/ Trung thành với Đảng/ Tận tụy với dân - lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể coi là những câu thơ đầu tiên viết về lực lượng Công an nhân dân vũ trang (CANDVT), nay là Bộ đội Biên phòng (BĐBP) với tư cách là những chiến sĩ “vệ binh quốc gia”. Đó cũng là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt nhất, khu vực biên giới, bờ biển, giới tuyến quân sự tạm thời trở thành những vùng đất trọng điểm mà Mĩ, Ngụy tăng cường bắn phá, tung gián điệp, biệt kích xâm nhập và kích động thổ phỉ nổi dậy.

Trung tá, nhà phê bình Phạm Vân Anh.
Từ mùa xuân ấy, mang trong tim lời huấn thị bằng thơ của vị cha già dân tộc, những chiến sĩ quân hàm xanh đến từ các lực lượng quân đội, công an hợp thành đã bắt đầu một hành trình gian nan mà đầy kiêu hãnh. Trong hoàn cảnh vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng vững mạnh, các đơn vị không ngừng nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, chịu đựng gian khổ hi sinh, cần kiệm xây dựng đơn vị và đẩy mạnh mọi phong trào thi đua trên các mặt công tác, chiến đấu. Những người lính quân hàm xanh dù ở giới tuyến hay biên giới, bờ biển hay nội địa đều thể hiện quyết tâm tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, xứng đáng với bài thơ Bác tặng khi Người đến dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn lực lượng CANDVT lần thứ nhất, năm 1962: Những chiến sĩ công an nhớ mãi lời thơ Bác/ “Non xanh nước biếc trùng trùng/ Giữ gìn Tổ quốc ta không ngại ngùng gian lao/ Núi cao sự nghiệp càng cao/ Biển sâu chí khí ta so vào càng sâu/ Thi đua ta quyết giật cờ đầu”/ Trong lịch sử bốn ngàn năm đây những ngày đẹp nhất… (Việt Nam đất nước những mùa xuân - Chế Lan Viên).
Họ đã tạm biệt đồng bằng, tạm biệt nơi đô hội, gác lại những riêng tư để đến với những bản làng còn nhiều khó khăn lạc hậu trên các đỉnh núi mù sương, vượt trùng dương để cập bến những hòn đảo hoang vu vắng dấu chân người để thực hiện nhiệm vụ nòng cốt chuyên trách, xây dựng, quản lí và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới Tổ quốc. Những chiến sĩ cận vệ Bác Hồ tự hào với nhiệm vụ quang vinh: Ngọn đèn nhỏ đêm khuya gió lộng/ Sáng tự nơi đây sáng khắp muôn vùng/ Như những vì sao thức hoài không mỏi/ Ta gác cho Người - Người gác cả non sông (Gác cho Người - Nguyễn Ngọc Châu). Và cũng chính họ, sẵn sàng đến với tiền tiêu khói lửa mà không hề do dự, ngại ngần: Đêm nay Phủ Chủ tịch sáng ngời/ Trên rặng nhãn gió sông Hồng dậy sớm/ Nghe cánh ve ru thời gian vô tận/ Cành sấu trở mình đã kín hạt sao xanh/… Đứng gác trong mùa đất nước chuyển tháng Năm/ Nghe tiếng Bác dài theo đường chiến đấu/ Sức trẻ trung vượt tầm cao ngọn núi/ Mắt sáng xuyên đêm/ Thưa Bác… cháu lên đường (Phiên gác tháng Năm - Phan Trọng Bằng).
Họ đến Nơi tiền tiêu nắng dãi mưa dầu/ Tay súng các anh giữ từng tấc đất/ Một ngọn cỏ cũng không thể mất/ Một cánh chim không thể lạc đàn/ Cột mốc phủ rêu thời gian/ Nhánh đường mòn từ lâu phân định/ Đập nát âm mưu của kẻ thù toan tính/ Quét chúng trước chiến hào như quét lá khô/ Biên giới ta lồng lộng bóng cờ/ Màu đỏ như mặt trời/ Thế đấy! (Phía sau các anh - Tạ Hữu Yên). Ở các địa bàn vùng sâu, vùng cao biên giới, thời tiết khắc nghiệt, giao thông khó khăn, công tác đảm bảo còn nhiều thiếu thốn. Cán bộ chiến sĩ đã phát huy tinh thần chủ động, tự lực cánh sinh, dùng vật liệu tại chỗ xây dựng doanh trại, bám dân, bám địa bàn tiến hành công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, tuyên truyền giáo dục tinh thần cảnh giác, không nghe theo luận điệu lôi kéo của bọn phản động, không tham gia phỉ..., vận động nhân dân định canh, định cư, xây dựng hợp tác xã, xây dựng đời sống mới: Những chiến sĩ biên phòng/ Đứng chon von giữa trời biên giới/ Chân đạp mây bay, tóc vờn gió núi/ Ngày mù sương tơ tưởng một bến đò/ Đêm sáng trăng khao khát một dòng thư/ Nhưng, anh lên đây ấm rừng ấm bản/ Đèo suối nâng niu bàn chân vạn dặm/ Gọi tên thổ phỉ trở lại là chồng/ Giữ hoà bình anh hiến máu trẻ trung/ Ghì đất nước trong vòng tay không không mỏi (Đáng sống biết bao một ngày vì cách mạng - Lưu Trùng Dương).
Những năm tháng cả nước cùng đánh giặc, 180 đồn, trạm biên phòng và giới tuyến dệt thành một vành đai xanh vững vàng bao quanh miền Bắc; 308 mục tiêu bảo vệ chốt chặt ở những vị trí trọng yếu trong nội địa, góp phần bảo vệ vẹn toàn miền Bắc, bảo vệ tuyệt đối an toàn lãnh tụ, Trung ương Đảng và Chính phủ trước những âm mưu ám sát, phá hoại của kẻ thù: Mùa xuân kịp sang đây/ Vệt cỏ rối chiều qua vừa phát hiện/ Ngách suối vắng mách chân người lạ đến/ Thác trời ngừng reo vang/ Để viên đạn tuân tra ghìm bước giặc… (Mùa xuân này theo sang - Phạm Ngọc Cảnh). Điểm tựa biên phòng trên con đường Hồ Chí Minh lịch sử cũng góp phần cho con đường bạt núi, xuyên rừng tiến về chiến thắng: Suốt dải biên phòng/ Anh chiến sĩ dựng niềm tin bản lẻ/ Trang tiếp sang trang, thư anh lại kể/ Trận thứ hai trăm đánh Mĩ ngang đèo/ Thương con đường mấy khúc gieo neo/ Bom đạn quanh mình vẫn vươn về phía trước… (Lá thư xa - Lương Sỹ Cầm) hay Từ cửa gió này ta xuyên Trường Sơn/ Ta chốt điểm cao, ta chia rừng phục kích/ Đường tuần tra đâu mùa chiến dịch/ Chiến dịch bốn mùa và thế trận bao la… (Cửa gió Tùng Chinh - Đào Nguyên Bảo).
Sự hi sinh của các anh trong công tác, chiến đấu bảo vệ nhân dân trong mưa bom, bão đạn được nhân dân ghi nhớ, truyền qua các thế hệ: Vầng trăng xuống chơi đêm nay trải chiếu hai hàng/ Kể chuyện anh cứu dân trong vòng bom đạn nổ/ Dân hi sinh trên anh, anh hi sinh trong lửa/ Các mệ ôm chầm anh đã ba ngày thịt rữa/ Chúng em chảy lên anh thành thương tiếc hai hàng/ Từ Thanh Xuyên thương tiếc đến Ba Làng/ Đông biển, Tây sông/ Những lớp sóng măng non vỗ quanh làng bán đảo (Sáng trăng trải chiếu hai hàng - Trinh Đường). Hay Chiến sĩ đồn Cầu Treo như những trụ cầu/ Em có thấy bóng hình Phan Đăng Tố/ Liệt sĩ anh hùng vẫn hiên ngang đứng đó/ Cùng đồng đội giương cờ Bác tặng Cầu Treo… (Những trụ Cầu Treo - Lê Thanh Lâm) và Cha Lo thăm thẳm rừng cây/ Yêu quê, yêu nước dân đây một lòng/ Có anh chiến sĩ Biên phòng/ Biến đèo thành trạm, biến rừng thành nương/ Cha Lo chín khúc tình thương/ Nói lên tiếng nói chiến trường xôn xao/ Có anh lên tận thác cao/ Sát lưng cùng với đồng bào đấu tranh… (Đường lên Cha Lo - Nguyễn Xuân Xanh).
Những năm tháng chiến tranh, cuộc sống của người lính biên phòng trăm bề neo khó, nhưng trong thơ của đồng người chiến sĩ nơi biên cương vẫn lạc quan, chia sẻ, sống cuộc sống đầy ắp tình người để vượt lên khó khăn mà chiến đấu: Tôi nhớ buổi chiều anh cõng tôi lên/ Chân tôi yếu không thể nào leo hết dốc/ Mỗi bước anh đi tôi đếm từng nhịp thở/ Hai trái tim thì thầm to nhỏ/ Hơi ấm lưng anh sưởi ấm cả lòng tôi; Nói đến đây anh bỗng cười xòa/ Đất nước khó khăn, quân thù còn đó… Ôi hồn anh là tâm hồn thời đại/ Còn khó khăn nào hơn thế nữa không anh (Điểm tựa - Lê Đức Thọ) hay Trong tiếng súng, trong hương rừng có mật/ Truyền cho nhau cách rung phím đàn bầu/ Quen thân rồi chẳng muốn xa đâu/ Sống chết theo tầm cao dáng đứng/ Như hoa đậu vào báng súng/ Tiếng cười tuổi trẻ ra đi/ Như lẽ đời nối mọi lưu ly/ Bắc những nhịp cầu qua dòng Bến Hải/ Dưới tầm bom rải dọc Trường Sơn/ Hoa đời cảng tỏa hương thơm/ Bên cột mốc bập bùng lửa cháy/ Việt Nam ơi đứng ở đâu cũng thấy/ Con đường biên chạy dọc trái tim mình… (Đường biên chạy dọc - Nguyễn Trung Kiên).
Theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng 400 bài thơ được sáng tác trong giai đoạn này mà tác giả thơ là lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, nhà nước, những nhà thơ lão thành cách mạng và đôi khi là chính những chiến sĩ biên phòng viết về cuộc sống, chiến đấu của mình và đồng đội. Dù âm hưởng, thi pháp và chất liệu phản ánh trong thơ khác nhau, song tựu chung đều khắc hoạ rõ nét hình ảnh người chiến sĩ biên phòng, thể hiện phẩm chất anh dũng, kiên trung, lòng yêu thương nhân hậu, nghĩa tình quân dân thắm thiết, tình đồng chí, đồng đội, tình bạn chân thành keo sơn gắn bó, tình yêu trong sáng, thủy chung, tinh thần lạc quan yêu đời, vượt lên trên tất cả mọi khó khăn gian khổ coi đồn là nhà, biên giới là quê hương, bà con các dân tộc là anh em ruột thịt... Qua lấp lánh những vần thơ, những nét đẹp của phẩm chất ấy được tỏa sáng trong cuộc sống của người chiến sĩ biên phòng hết sức chân thành, giản dị có sức lay động lớn./.
P.V.A