Thứ Năm, 17/01/2019 00:22

Hoa đào năm ấy

Thăng Long năm ấy là một vùng chiến địa. Nhận lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, vua Càn Long lệnh cho Tôn Sĩ Nghị đưa binh xuống phía Nam. (Truyện ngắn dự thi của TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Truyện ngắn dự thi. TRẦN THỊ TÚ NGỌC

Thăng Long năm ấy là một vùng chiến địa.

Nhận lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, vua Càn Long lệnh cho Tôn Sĩ Nghị đưa binh xuống phía Nam. Quân Thanh chiếm Thăng Long vào ngày 20 tháng mười một năm Mậu Thân thì ngày 22 tháng đó Lê Chiêu Thống được tấn phong làm An Nam quốc vương. Vua tôi nhà Lê chịu ơn thiên triều, cúi đầu thần phục, mỗi ngày đều cưỡi ngựa đến quân doanh của Tôn Sĩ Nghị để xin chỉ thị.

Tôn Sĩ Nghị cho quân Vân Quý của Ô Đại Kinh bố trí ở Sơn Tây, quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống trấn giữ Khương Thượng. Đại quân của đề đốc Hứa Thế Hanh đóng tại Ngọc Hồi, phía tiền tiêu có đồn Hà Hồi án ngữ. Mấy vạn binh linh giáo gươm sáng loáng, khí thế ngút trời, tham vọng đưa An Nam trở lại nội thuộc như cũ.

Bên kia phòng tuyến Tam Điệp, vua Quang Trung bắt đầu tiến binh. Ngày 29 tháng mười một Tây Sơn ra đến Nghệ An, lực lượng có trên mười vạn quân và hơn hai trăm voi chiến.

Tháng Chạp chìm trong giá rét, bầu trời sầm tối báo hiệu một cuộc chiến thảm khốc và đẫm máu sắp ập đến. Không giống như những tướng lĩnh khác tham gia cuộc nam chinh lần này, Trương Hội Nguyên thấy lòng bị đè nặng bởi những dự cảm bất an.

Đây không phải là lần đầu tiên Trương Hội Nguyên đến An Nam. Khi còn nhỏ hắn từng nhiều lần theo cha xuống tận Hội An buôn bán đồ tơ lụa, bởi vậy có thể nói chuyện thành thạo với người bản xứ.

Xứ sở này không giống với Trung Nguyên. Những người dân đội nón lá, khoác áo tơi kết bằng rơm rạ, lẳng lặng nhìn quân thiên triều đi qua. Cái nhìn nửa như đau xót, nửa như chịu đựng.

- Họ đang nghĩ gì? - Trương Hội Nguyên hỏi người lính đang cưỡi ngựa theo sau. Người lính cũng quê ở Quảng Đông, còn rất trẻ nhưng đã theo hắn chinh chiến mấy năm trời.

- Tướng quân đang bận tâm điều gì? - Người lính trẻ hỏi lại.

Trương Hội Nguyên không cho phép mình nghĩ ngợi.

Sáng nay cầu phao qua sông Nhị đã bắc xong, đề đốc Hứa Thế Hanh lệnh cho Trương Hội Nguyên đưa quân xua toàn bộ dân cư xung quanh đồn Ngọc Hồi ra xa, lập một vành đai trắng quanh đồn để tiện bề quan sát. Đoàn quân đi đến đâu, tiếng chó sủa, gà kêu, trẻ con gào khóc đến đó, tạo thành một mớ âm thanh hỗn loạn. Những người chần chừ không chịu dời đi đều bị cho một mồi lửa đốt luôn nhà. Dưới màn mưa phùn ẩm ướt, khói đen cuộn lên từ những mái rạ sũng nước phía sau đoàn người bồng bế dắt díu nhau chạy loạn.

Cứ than khóc đi.

Trung Nguyên cái ngày run rẩy dưới vó ngựa người Mãn chắc cũng như thế này.

Rồi các ngươi sẽ phải tết tóc bím và cạo nửa đầu như ta.

Trương Hội Nguyên dừng chân trước một trang viên rộng lớn cách không xa đồn Ngọc Hồi. Cánh cổng bằng tre mở rộng, thấp thoáng đằng sau khu vườn đầy những cây đào khẳng khiu trơ trụi là một ngôi nhà năm gian vững chãi.

Chủ nhân là một người đàn ông tóc đã bạc. Họ Trần.

- Thưa, tướng quân muốn gì?

- Chặt sạch vườn đào này cho ta.

Kiếm vung lên sắc lẹm. Những thân đào vừa chớm nụ gãy gục. Nhựa ứa ra như máu. Người đàn ông tóc bạc nhìn những cánh hoa nở sớm bị xéo nát trong bùn bằng cái nhìn bình thản.

- Nếu không ngại, mời tướng quân vào tệ xá uống một chén trà. Khu vườn này rộng lắm, chắc phải quá ngọ mới xong.

Trương Hội Nguyên trao kiếm cho người lính hầu rồi cùng ông lão bước vào nhà. Mấy người lính cận vệ định theo sau hộ tống nhưng hắn đã đưa tay ra hiệu dừng bước. Chỉ là một lão già thôi. Ta có gì phải sợ.

Phòng khách nhỏ, ấm cúng. Bộ bàn ghế bằng tre. Khay đựng chén cũng bằng tre.

Người pha trà là một cô gái trẻ, bàn tay mềm mại như ngó sen. Khi cô ngẩng đầu lên, Trương Hội Nguyên bỗng thấy sững sờ.

Người con gái quá đẹp. Đôi mắt đen lấp lánh dưới hàng mi bóng rợp.

- Đây là con gái của lão. Thủy Tiên.

Thủy Tiên nhẹ nhàng cúi đầu chào khách. Cũng như cha mình, cô nhìn Trương Hội Nguyên bằng một cái nhìn bình thản.

Hắn không chịu đựng được ánh mắt ấy, liền ngước lên phía bức tường đối diện. Ở đó treo một bức thư pháp viết theo lối chữ thảo. Đó là bài Đề đô thành Nam trang của Thôi Hộ:

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong

Bên ngoài vẫn vang lên tiếng những cây đào đổ xuống soàn soạt. Trong gian phòng tĩnh lặng, chén trà ướp hương nhài nhẹ nhàng tỏa hương. Màu đỏ hoa đào quanh bức thư pháp trên tường như sẫm lại. Một ngày xa xưa ở Bắc Kinh, Hội Nguyên từng nghe ông nội ngâm bài thơ này khi uống rượu cùng những người bạn đồng niên trong một khu vườn tơi bời hoa rụng. Một vài người trong số đó về sau bị xử trảm vì tham gia phong trào phản Thanh phục Minh. Gia đình hắn phiêu dạt xuống Quảng Đông được hơn mười lăm năm thì ông nội lâm bệnh nặng. Trước khi chết, ông trối trăng lại rằng hãy xõa tóc cho ông lại rồi khâm liệm để khi xuống hoàng tuyền tổ tiên còn nhận ra mặt.

Người Hán không để tóc tết bím, cạo nửa đầu.

- Tại sao lại trồng đào?

- Người An Nam chúng tôi chưng đào trong ngày tết.

- Tết năm nay các ngươi không có hoa đào nữa đâu. Ta sẽ chặt hết.

- Rồi chúng tôi sẽ trồng lại, thưa tướng quân.

Trương Hội Nguyên bước ra ngoài. Khu vườn ngổn ngang như vừa qua một trận bão lớn. Góc cuối vườn, còn sót lại một thân đào còn chưa bị chém lìa khỏi gốc. Hắn liền rút kiếm trên tay một người lính, vung lên.

- Đừng.

Người con gái đã đứng ngay bên cạnh cây đào sắp gãy gục. Đôi mắt cô buồn thăm thẳm.

Trương Hội Nguyên hạ kiếm xuống.

Đoàn quân rầm rập kéo đi. Binh sĩ không hiểu vì lí do gì mà tướng chỉ huy quên ra lệnh phóng hỏa đốt nhà. Đó là ngôi nhà duy nhất còn sót lại giữa một vùng đồng không mông quạnh.

*

* *

Cuối tháng Chạp, rét cắt thịt cắt da. Đất trời một màu xám xịt. Nước sông Nhị tái ngắt, thoi thóp chảy giữa đôi bờ lau xác xơ. Sau mấy lần can qua, suốt một vùng đồng bằng dân cư xiêu tán, quạ đen bay rợp trời.

Cây cầu phao bắc qua sông Nhị trở thành con đường duy nhất nối giữa hai bộ phận chủ lực của đội quân Lưỡng Quảng. Trương Hội Nguyên không khỏi lo lắng. Nếu Tây Sơn chiếm được cây cầu này, hoặc khi xảy ra biến động buộc phải lui binh, nơi đây chắc chắn trở thành tử huyệt.

Cũng như Tôn Sĩ Nghị, đề đốc Hứa Thế Hanh tin tưởng Tây Sơn không thể nào tái chiếm được Thăng Long. Vó ngựa và gươm đao người Mãn còn san bằng được cả Trung Nguyên, huống hồ là một đám giặc cỏ như cá nằm trong chậu. Những lời tâu trình của Trương Hội Nguyên bị gạt sang một bên.

Họ không hiểu người An Nam.

Chính ta cũng không hiểu gì về An Nam. Đôi mắt người con gái trong vườn đào hôm ấy ẩn chứa điều gì?

Chưa từng có người nào nhìn ta bằng ánh mắt bình tĩnh như vậy.

Đã sắp đến tết, binh sĩ Lưỡng Quảng phần lớn là người Hán, ít nhiều đều cảm thấy nhớ nhà. Những ngày này ở Trung Nguyên nhà nào cũng treo đèn lồng đỏ, hãm củ thủy tiên, hồi hộp đợi người đi xa trở về. Sau khi ông nội mất, cha cũng yếu dần rồi qua đời cách đây năm năm, Hội Nguyên chỉ còn lại người mẹ già ở trong căn nhà cô quạnh bên ngoài thành, phía trước có một cây bích đào già cỗi. Cây đào này là của một người bạn cũ ở Bắc Kinh tặng ông nội trước khi chia biệt.

Hoa đào trước sân nở rồi lại rụng.

Đường về phương Bắc vời vợi xa.

Tin tức về cuộc hành quân thần tốc của Nguyễn Huệ tới tấp bay về. Ngày 20 tháng mười hai năm Mậu Thân, đại quân Tây Sơn đã ra đến Tam Điệp. Những lời đồn đại rì rầm truyền từ doanh trại này sang doanh trại khác khiến các binh sĩ nhà Thanh thêm phần hoảng hốt. Phần lớn họ đều xuất thân là nông dân, từ bỏ ruộng vườn, mẹ già con dại, tham gia vào một cuộc viễn chinh rầm rộ xuống phương Nam mà không rõ nguyên nhân.

Chỉ có Tôn Sĩ Nghị vẫn nung nấu tham vọng cũ, đốc thúc quân lính đánh phá khắp nơi hòng triệt tiêu mọi ngả đường tiến tới Thăng Long. Càng gần đến tết, lệnh ban ra càng nghiêm ngặt. Quân Thanh tăng cường tuần tiễu suốt ngày đêm, suốt một dải phía nam sông Nhị, làng mạc bị tàn phá trơ trụi. Dân chúng khiếp sợ bỏ chạy tan tác.

Phải đè bẹp mọi sự phản kháng.

Những gương mặt An Nam lặng im nhẫn nhịn.

Tết năm nay sẽ không có hoa đào.

Một buổi sáng, Trương Hội Nguyên dẫn đầu đám lính đi tuần sớm hơn thường lệ. Ngang qua cánh đồng mịt mù sương giá, bọn họ phát hiện ra một toán người An Nam đang vội vã rảo bước bên kia lối mòn. Quân Thanh nhanh chóng bám theo, toán người đó rẽ vào trang viên họ Trần.

Minh họa: Phạm Hà Hải

Đó là mấy người đàn ông An Nam, mặc quần áo thâm, đi giày cỏ. Những gương mặt tái sạm vì rét không khỏi kinh sợ bởi bị vây kín bởi đội quân gươm giáo tua tủa.

- Các người là ai, từ đâu đến đây? - Trương Hội Nguyên gằn giọng.

Mấy người lạ mặt chưa kịp trả lời thì từ trong nhà, một cô gái trẻ bước ra. Đó chính là Thủy Tiên, cô gái có đôi mắt long lanh và khuôn miệng e ấp như nụ hoa hàm tiếu. Cô mỉm cười với những người đàn ông như gặp lại người quen cũ:

- Trương tướng quân và các vị quan gia vất vả quá rồi. Xin mời vào nhà tiểu nữ uống một chén trà cho ấm bụng. Đây là những người lái buôn mọi năm vẫn đến trang viên nhà tiểu nữ để lấy hoa đào về bán cho các vùng lân cận. Thật tiếc năm nay chư vị họ Nguyễn đây đến muộn mất, nhà tiểu nữ chẳng còn hoa nữa.

Ba người đàn ông gật đầu.

Trương Hội Nguyên vẫn im lặng. Dưới chiếc mũ lông trùm kín xuống trán, đôi mắt nhỏ và xếch ánh lên cái nhìn lạnh lẽo.

Không khí căng như dây đàn. Chưa một lưỡi kiếm nào hạ xuống.

Quay sang Trương Hội Nguyên, cô gái khẽ nói:

- Nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong. Đến ngọn gió đông vẫn nhớ hoa đào năm ngoái, thì những người này quay lại vườn đào của tiểu nữ cũng vì cái duyên với hoa mà thôi. Hoa đào đã không còn nữa, xin tướng quân hãy để cho họ đi.

Câu cuối cùng nàng nói rất nhỏ, dường như chỉ đủ cho hắn nghe thấy.

Nàng nhìn viên tướng nhà Thanh. Chờ đợi. Đôi mắt đen ánh lên cái nhìn xa thẳm như những đôi mắt con gái xứ Trung Nguyên. Chính vì cái nhìn mênh mang ấy mà những ngày đóng quân tại Ngọc Hồi, khi tình hình chiến sự còn chưa căng thẳng, Trương Hội Nguyên thỉnh thoảng vẫn xuống đây để uống trà với hai cha con họ Trần. Họ cùng nhau nói chuyện về Đường thi, ngắm ông lão viết thư pháp và thưởng thức món bánh nhỏ xinh làm từ lá khúc do chính tay Thủy Tiên hái về.

Những ngày bình yên ngắn ngủi giữa chiến tranh.

Ta biết mình đã đánh mất nhiều thứ.

Hoa đào không có lỗi.

- Các ngươi hãy đi đi.

*

* *

Đêm 30 tháng Chạp, quân Tây Sơn bất ngờ đánh úp tiêu diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung tiếp tục dẫn binh đến Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi. Tin tình báo cho hay sở dĩ Tây Sơn tiến binh được nhanh khi đánh xuống vùng đồng bằng là vì có người dân giúp sức dẫn đường và mật báo các tin tức quân sự thu lượm được từ trước. Vì vậy việc Trương Hội Nguyên sơ suất tha cho những người An Nam lạ mặt mấy ngày trước khiến đề đốc Hứa Thế Hanh nổi giận. Hứa Thế Hanh có đủ bằng chứng để tin rằng đám người đó chính là quân do thám của Tây Sơn cử đến và hai cha con họ Trần ở lại trang viên bên ngoài đồn Ngọc Hồi là để làm nội gián.

Trương Hội Nguyên ngay lập tức quay lại trang viên họ Trần.

Ngựa tung vó trong bùn lầy. Thanh kiếm bên lưng lạnh buốt.

Ngày mồng một đầu năm vắng rợn. Những cánh đồng hoang lạnh chìm trong màn mưa u ám. Trên một vài thân cổ thụ bị đốt cháy nham nhở ven đường, vài con quạ đen thỉnh thoảng lại kêu lên một tiếng thảm thiết.

Đây đâu phải là khung cảnh mùa xuân phương nam như người ta vẫn hay nói trong sách vở.

Chiến tranh đã tàn phá hết rồi.

Ngôi nhà lá năm gian quen thuộc hiện ra trước mặt. Trương Hội Nguyên xô cửa bước vào. Thâm tâm hắn vừa muốn tìm được nàng, vừa muốn nàng đã trốn đi.

Thủy Tiên ngồi đó, dưới bức thư pháp được viết bằng nét chữ bay bổng và mềm mại. Nàng nhìn Hội Nguyên. Vẫn là đôi mắt ấy. Vẫn cái nhìn trong trẻo và bình tĩnh.

- Nói đi, nàng là người của Tây Sơn đúng không?

- Tiểu nữ là người An Nam.

Trương Hội Nguyên khẽ đặt cây kiếm trên bàn. Ngoài kia mưa phùn vẫn nhè nhẹ rơi. Góc phía đông ngôi nhà, cây đào duy nhất còn sót lại bắt đầu trổ những bông hoa ánh hồng phơn phớt. Thủy Tiên mỉm cười dịu dàng:

- Tướng quân nhìn xem, hoa đào đã nở rồi đấy. Muốn có hoa nở đúng dịp tết, người trồng hoa phải trảy lá từ tháng mười một. Rồi sau đó ngày đêm thức nghe gió đông, thấy khô hanh phải tưới thêm nước, thấy trở lạnh phải ủ ấm gốc cây bằng rạ rơm. Chỉ tiếc rằng năm nay tướng quân đến đây không có cơ hội được ngắm hoa đào. Những mùa xuân trước, dọc hai bên bờ sông Nhị, một vùng hoa đào bừng nở rực rỡ trong nắng xuân, vườn hoa của hai cha con tiểu nữ là đẹp nhất.

- Cha nàng đâu?

- Sau khi vườn đào bị chặt hạ, cha tiểu nữ đã quyết định đi về miền tây xứ Nghệ để tìm những cây đào rừng. Gia đình tiểu nữ mấy đời sống bằng nghề trồng hoa, cũng như những người dân ở đất Thăng Long này, dẫu loạn lạc chiến tranh vẫn không từ bỏ những phong tục cũ. Tiểu nữ biết tướng quân sẽ đến đây, nên muốn nán lại gặp người để nhắn rằng, tướng quân hãy đi đi, khi còn đang kịp. Hãy về với người mẹ đang ngày đêm ngóng đợi người trên đất Trung Hoa.

Lần đầu tiên Trương Hội Nguyên nhìn thẳng vào gương mặt người con gái ấy, thấy lòng mình dâng lên một nỗi đau xót khôn nguôi. Chúng ta đã làm gì trên đất nước của nàng, đã chém giết bao nhiêu người, đã giày xéo bao nhiêu làng mạc, đã không bao giờ nguôi tham vọng đô hộ và đồng hóa xứ sở này. Nhưng nàng vẫn vẫn đối xử với ta dịu dàng và bao dung như thế.

Trương Hội Nguyên bước lại gần nàng, đưa bàn tay chai sạn vì bao năm chinh chiến khẽ chạm lên đôi má mềm mại như một cánh hoa:

- Hãy tha lỗi cho ta.

Viên tướng nhà Thanh lên ngựa, bóng người chìm khuất trong mưa.

*

* *

Đêm mồng 4 tết, Quang Trung tiến đến trước đồn Ngọc Hồi. Nỗi lo sợ kinh hoàng trùm lên toàn bộ quân Thanh trấn giữ trong đồn. Đề đốc Hứa Thế Hanh quyết tâm cố thủ, hi vọng Tôn Sĩ Nghị sẽ đưa binh đến cứu. Rạng sáng ngày mồng 5, đại quân Tây Sơn tấn công như vũ bão, tiếng voi gầm, ngựa hí cùng với hỏa lực cực mạnh của đại pháo khiến quân Thanh khiếp đảm. Hứa Thế Hanh chống đỡ không nổi, dẫn bại quân bỏ đồn chạy về phía cầu phao sông Nhị, định rút lên phía Bắc.

Trời đã về chiều. Chân trời phía Tây đột ngột bừng lên những tia nắng quái. Sông Nhị cuồn cuộn chảy cuốn theo vô số xác người. Nước sông đỏ ngầu lên màu máu. Tôn Sĩ Nghị đã ra lệnh chặt đứt cầu phao để chạy thoát thân. Hơn một vạn quân Thanh bị mắc kẹt bên này sông, gào thét trong tuyệt vọng.

Trương Hội Nguyên ngạc nhiên thấy mình bình tĩnh đến lạ lùng.

Ta đã linh cảm rằng bi kịch này rồi sẽ xảy ra. Những đôi mắt An Nam lặng im trong ngày ta tiến đến Thăng Long. Đó không phải là cái nhìn nhẫn nhịn. Họ lặng im bởi họ biết xứ sở này mãi mãi thuộc về họ.

Không giống như chúng ta đã buông bỏ Trung Nguyên dưới gươm đao người Mãn, chấp nhận tết tóc bím và cạo nửa đầu.

Ông lão tóc bạc ở trang viên kia nói đúng, năm sau họ sẽ trồng lại hoa đào.

Vua Quang Trung tiến vào Thăng Long, tổ chức khao quân rồi cho gom nhặt thi hài những người lính Thanh tử trận chôn cất cẩn thận sau khi làm lễ tế vong hồn. Trương Hội Nguyên cùng các tù binh may mắn sống sót sau trận chiến được thả cho về nước.

Người ta kể rằng Thăng Long mùa xuân năm ấy chiến tranh bão lửa ngút trời, nhưng không hiểu sao vẫn sót lại duy nhất một cây đào trong trang viên nhà nọ. Cành đào tươi thắm ấy được dâng lên vua Quang Trung vào trưa mồng năm Tết, khi áo bào của Người còn sạm đen thuốc súng. Nhà vua đã cho mang cành đào về Phú Xuân báo tin thắng trận.

Trương Hội Nguyên về lại Quảng Đông, sống lặng lẽ trong ngôi nhà cũ ở bên ngoài thành. Mỗi năm cứ đến tháng mười một gió đông lạnh lẽo, người ta thấy ông trảy lá cây bích đào trước cửa. Để đến đêm ba mươi tết, cắt một cành đào rực rỡ hoa mang vào cắm trong nhà.

Cành đào nhắc ông nhớ về một mùa xuân năm ấy ở phương Nam.

T.T.T.N