. NAM GIANH
Tôi chìm đắm tuyệt đối vào tâm hồn tập thơ Dưới chân núi Tu Di (Nxb Hội Nhà văn, 2025) của Nguyễn Thành Hưởng trong một sáng mù sương ở Đà Lạt, để rồi chạm gặp những câu thơ như thở nhẹ vào cõi lặng: những câu thơ như lời chim non/ như hương trầm/ như gió thổi ngàn năm (Giao thừa).
Tôi đọc, và từ đó như bị dẫn dụ vào một thế giới khác: một thế giới vừa mơ vừa tỉnh, vừa trầm tĩnh mà không rời hiện thực, vừa thân quen như đất quê mà cũng lạ lẫm như tiếng vọng từ nơi sâu kín nhất trong lòng người.
Tên tập thơ Dưới chân núi Tu Di gợi lên một hình ảnh mang tính biểu tượng và siêu hình học sâu sắc. Trong văn hóa Phật giáo, núi Tu Di là trung tâm của vũ trụ, là nơi cư ngụ của thập loại chúng sinh cho đến các tầng trời. Khi tập thơ lấy tên là Dưới chân núi Tu Di, thì không chỉ là một cách định vị không gian, mà còn là một khẳng định về nơi chốn của tâm hồn, một sự chọn lựa đứng dưới ngọn nguồn cao cả, để ngước nhìn, để thấm nhận, lắng nghe.
Trong tập thơ này, “lắng nghe” là một động thái thiêng liêng. Người đọc không chỉ được mời gọi để nghe âm thanh của chữ nghĩa, mà còn là để cảm nhận những âm vọng từ nội tâm, từ kí ức, từ quê hương, từ vết thương lịch sử, từ linh cảm siêu hình.
Nguyễn Thành Hưởng không làm thơ như một sự kể tả, mà làm thơ như một sự lắng lọc. Có những bài thơ như hơi thở, như tiếng gió vờn sương. Có những bài lại như những đợt sóng thần thức đổ tràn lên lòng người.
Có thể nói, thơ của Nguyễn Thành Hưởng là kết tinh của ba dòng chảy: một dòng quê - đầy ắp nỗi nhớ và gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Trung; một dòng thiền - hướng nội, chiêm nghiệm và vượt thoát; một dòng lịch sử - khắc khoải, chấn thương nhưng đầy tự hào. Ba dòng chảy ấy không song song mà xoắn quyện vào nhau như những vỉa nước ngầm, tạo nên một giọng thơ bền trầm, trộn khó lẫn. Trong sự hợp lưu ấy, tình yêu Tổ quốc nổi lên như một trục tâm linh không cần tô đậm.
Ở bài thơ Tổ quốc tôi, có thể nhận ra một mạch cảm xúc từ rất xa xưa, từ thuở Phù Đổng, từ những lớp sóng trống đồng, cho đến những nhịp đập hôm nay, nơi “trái tim mẹ trao con”, để nhịp sống cứ được tiếp truyền miên viễn.
Em ơi em lửa cháy con tim/ em ơi em sóng vỗ trong lòng/ Tổ quốc mình nước mắt của mẹ/ Tổ quốc mình xương máu của cha/ Tổ quốc mình nỗi nhớ của em/ Tổ quốc mình mơ ước của anh/ Tổ quốc mình tương lai con cháu (Tổ quốc tôi).
Không phải là sự tụng ca ồn ào, mà là lời thủ thỉ giữa những hồi tưởng và hiện diện. Tình yêu Tổ quốc trong đây là thứ tình yêu không cần răn dạy, bởi nó đã tan vào máu, thấm vào hơi thở. Đó là Tổ quốc như “một chiếc nôi đong đưa nơi biển cả”, là tiếng mõ ban mai, là giọt nước mắt, là giấc mơ và lời ru.
Nhiều bài thơ trong tập có âm hưởng sử thi nhưng không phải để kể chuyện, mà để sống lại trong ý thức. Trong Bài thơ nơi khu tưởng niệm Gạc Ma, giọng thơ rưng rưng mà không bi lụy. Những câu thơ khắc họa hình ảnh 64 người lính - những “trái tim bất khuất hóa mặt trời”. Hình ảnh ấy vượt qua cái cụ thể để đi vào tầng biểu tượng, tầng linh thiêng. Thi sĩ không tô vẽ hào quang, mà khơi lại ánh sáng từ máu thịt của sự thật.
Máu tử sĩ là hồn thiêng của biển/ để xanh ngọc sóng vỗ ngàn năm/ xương anh hùng thay cốt thép/ cắm chặt cột mốc cho đảo mãi/ không chìm/ Lính biển xa khơi/ sống chung boong tàu/ chết chung ngôi mộ gió/ Gạc Ma thành tên chung/ Tên-Của-Những-Anh-Hùng (Bài thơ nơi khu tưởng niệm Gạc Ma).
Một trong những phẩm tính đáng trân trọng của thơ Nguyễn Thành Hưởng là sự bao dung, không phán xét. Bài thơ Tấm ảnh “hai người lính” không chọn “phe”, không kể công, mà là một cái nhìn nhân văn: hai người lính ở hai chiến tuyến vẫn chung một giống nòi, cùng nhau “thiêu đốt hoàng hôn”. Thơ Nguyễn Thành Hưởng đứng về phe con người, phía nỗi đau và kí ức cần được chữa lành.
Con người sinh ra từ giọt máu/ nhận biết cuộc đời bằng vết sẹo/ thời gian/ có vết sẹo thơ ngây mãi còn/ nương náu/ có vết sẹo hoắm sâu nơi viên đạn/ hận thù/ Con trai mang sẹo thành ngọc nơi/ đáy bể thẳm sâu/ bầu trời mang sẹo chi chít sáng/ đêm thâu/ cây mang sẹo để thành lũa quý/ bạn và tôi mang sẹo để/ thương nhau (Vết sẹo).
Với những bài thơ viết trong đại dịch, như Hiểu và thương, Sài Gòn ơi, hay Em ơi cố lên, người đọc dễ dàng cảm nhận được sự trầm lắng, thương xót và niềm tin le lói được chắt lọc từ những bi kịch. Trong những lúc “trái tim đông đặc” ấy, thơ là một thứ ánh sáng nhỏ nhoi nhưng bền lâu, là nơi con người nhận ra sự tử tế vẫn đang hiện hữu, để “sự sống ơi ta xin cảm ơn người”.
Đặc biệt, trong những bài thơ như Tồn tại và tư duy, Này bóng này tôi, hay Khả và bất khả, ta thấy Nguyễn Thành Hưởng bước vào lãnh địa của tư tưởng: nơi không chỉ cảm xúc mà còn là những tra vấn hiện sinh sâu sắc. Ông không làm triết học bằng thơ, nhưng để thơ chạm vào nỗi hoài nghi và những huyền nhiệm bất khả ngôn.
Thơ Nguyễn Thành Hưởng đôi khi nghiêng về thể tự do, có khi lại đậm chất truyền thống; có bài như vịnh, có bài như văn xuôi thi vị, có bài là khúc hát ru, khúc giã bạn, khúc vọng âm. Nhưng dù hình thức nào, ngôn ngữ thơ vẫn luôn hướng đến sự giản dị cao độ - một thứ giản dị đi qua biết bao trầm tích cảm xúc và trải nghiệm. Đó là sự giản dị của người tự nhiên uyên áo, chắc đặc kiệm lời.
Một ngày/ tôi chợt thấy thế giới bao la/ muôn màu/ được sinh ra từ nơi yên ắng/ được nhận biết từ hai màu/ trắng đen/ Tôi vỡ òa/ trả hết buồn đau vào khoảng trống/ hạnh phúc cùng trang sách/ và bình yên giữa trắng đen (Từ nơi trang sách).
Tên bài viết này - Lắng nghe sự bình an lên tiếng - được gợi ý từ một câu thơ trong bài thơ Hoa chùa. Nó có thể coi là một thông điệp chung cho toàn bộ thế giới thi ca của Nguyễn Thành Hưởng.
Trong một thời đại đầy hỗn tạp, tốc độ, xung đột và lạc hướng, thơ ông không cao giọng, mà là một tiếng thì thầm. Một tiếng thì thầm kiên quyết, như từ một nơi rất sâu và rất sáng.
Này tôi/ tận lực thắp đèn lên để thấy/ con người vô số bóng đen/ cho đến khi thắp ánh tâm quang/ từ bên trong toả chiếu ngập tràn/ không tôi/ không bóng/ không ngọn đèn nào cả (Này bóng này tôi).
Một tiếng nói vang, không phải vì lớn tiếng, mà vì nhân bản, tự nhiên, chân thành. Có lẽ đó cũng là điều sâu xa nhất mà thơ Nguyễn Thành Hưởng hướng tới: một sự yên lặng có âm thanh, một sự trầm mặc có ánh sáng.
Khi thế gian còn mãi xao xác, thì ở dưới chân núi Tu Di, vẫn có một người thơ đang ngồi lại, lặng yên, lắng nghe, “thương như thương nỗi đau”. Và từ sự lặng-thương ấy, thơ bung nở, như một nguồn suối tinh khiết, sáng trong, dẫn ta trở về chính cõi thẳm của mình.
Đà Lạt, 8/6/2025
N.G