Thứ Sáu, 14/03/2025 08:04

Một người cha vĩ đại

Lá thư đề ngày 28/4/1928 có câu: “Vì vậy tôi không dám tự tiện xử sự, tôi yêu cầu nhận được lệnh của cô về việc này”... (TRÌNH QUANG PHÚ)

.TRÌNH QUANG PHÚ
 

I

Nguyễn Sinh Sắc(1) sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Sen, sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải lam lũ từ bé. Nhưng với chí ham học hỏi, đi chăn trâu, ngồi lưng trâu vẫn học, đã chinh phục ông Hoàng Đường đón về nuôi dạy. Nguyễn Sinh Sắc hàng ngày giúp việc và được ông cho đèn sách. Một người đi “ở đợ” mà được ăn học là việc hiếm trên đời. Ông Hoàng Đường nuôi Nguyễn Sinh Sắc lớn lên và gả con gái mình cho. Cái ơn ấy là một trong những động lực thúc đẩy Nguyễn Sinh Sắc học thành tài, trở thành Phó bảng - một tiến sĩ thời ấy. Trước khi trở thành “ông quan”, Phó bảng đã từng là một nhà giáo, ông dạy nhiều học trò, trong đó có con trai mình, Nguyễn Sinh Cung, bằng tâm thức một người yêu nước. Khi phải làm quan, ông coi quan trường là chốn nô lệ nhất. Ông quan niệm: “Quan trường thị nô lệ, trung chí nô lệ, hựu nô lệ” (quan trường vốn là nô lệ của đám nô lệ, và càng nô lệ hơn). Là một quan thanh liêm, rất thanh liêm nên ông nghèo về tiền bạc nhưng giàu lòng yêu nước. Ông có quan hệ chí cốt với nhiều chí sĩ đương thời như Vương Thúc Quý, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, kể cả Đào Tấn đang làm Tổng đốc xứ Nghệ An. Ông nuôi chí lớn cho Nguyễn Sinh Cung, hỗ trợ, giục giã con trai ra đi tìm đường cứu nước. Nguyễn Sinh Sắc có ba người con thì cả ba đều là những chiến sĩ yêu nước, từng chịu cảnh tù ngục, tra tấn, nhưng vẫn kiên gan chịu đựng và lặng lẽ hi sinh. Những ngày ở quê và ở Huế, nơi chốn quan trường, Nguyễn Sinh Sắc có nhóm hội văn thơ, gồm những người cùng chí yêu nước. Đi thăm bạn hữu, những cuộc đàm đạo bên ấm trà, những cuộc bình văn xướng thơ… Nguyễn Sinh Sắc đều cho Nguyễn Sinh Cung đi theo. Ông tìm cho con những quyển sách hay để mở mang trí óc, một sự bồi đắp cho con nên người của người cha có học. Ngay từ những ngày ấy, hai cha con đã phân tích những xu hướng của hai cụ Phan và nhất trí rằng “Đông du” của Phan Bội Châu và “Khai dân trí” của Phan Châu Trinh vào lúc nước mất nhà tan là chưa phù hợp nhưng khâm phục và học tập lòng yêu nước, chí khí vì dân tộc của hai cụ. Khi cuộc chống thuế nổ ra ở Huế, Nguyễn Sinh Cung lúc này được cha đổi tên là Nguyễn Tất Thành, tham gia đi đầu để phiên dịch. Cuộc chống thuế bị đàn áp dã man, máu đỏ cầu Trường Tiền, loang trên dòng sông Hương. Mật thám truy tìm Nguyễn Tất Thành. Là một quan trong triều đình có con bị mật thám truy xét là đại họa, rất bất an, nhưng ông vẫn thản nhiên chấp nhận, chỉ nhắc con: “Nhiệt huyết là phải giữ. Xốc nổi như vậy là đoản, trường lộ còn phía trước, phải giấu mình”. Ông gấp rút chuẩn bị cho con trai vào Nam.

Tượng cụ Phó bảng ở Đồng Tháp

Con đường vào Hội An theo thuyền buồm chở mắm của Công ty Liên Thành để vào Quy Nhơn là chặng xuyên Việt đầu tiên của Nguyễn Tất Thành do chính thân phụ mình thiết kế. Các bạn quen làm tại Công ty Liên Thành ở Quảng Nam đã góp mười bốn đồng làm lộ phí. Theo sự thu xếp, Nguyễn Tất Thành cập bến Quy Nhơn và ở nhà thầy giáo Phạm Ngọc Thọ cha của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (năm 1945 là Bộ trưởng Y tế của nhà nước cách mạng, hi sinh ở chiến trường miền Nam được phong Anh hùng lao động). Phạm Ngọc Thọ là một giáo học trường Pháp, nhưng là người yêu nước, là bạn của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Trong thời gian này, cụ Phó bảng cũng đi chấm thi ở Bình Định, sau đó nhận Tri huyện Bình Khê, một huyện miền núi của Bình Định, nơi ẩn cư của những thành phần bất hảo. Nhưng xa xưa là nơi dấy binh khởi nghĩa của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung. Nguyễn Tất Thành đã nhiều lần lên huyện đường thăm cha và được cha dùng gương của Quang Trung để hun đúc lòng yêu nước thương nòi, được nghe cha giảng:

- Quang Trung gốc từ dòng họ Hồ, lúc nhỏ có tên là Hồ Thơm. Quê gốc xa xưa là ở Quỳnh Lưu, xứ Nghệ An như mình. Thân sinh của Quang Trung là Hồ Phi Phúc đã theo cha vào Nam và định cư ở Bình Định.

- Đến đời Hoàng đế thì đổi thành họ Nguyễn hả cha?

- Ừ! Quang Trung lấy họ mẹ, nhưng cũng để thuận với chúa Nguyễn đang ngự trị đàng trong. Dòng họ mình thơm lây đó con. Quang Trung từ người lao động, đã đứng lên tập họp nhân dân khởi nghĩa, lấy của người giàu chia cho người nghèo, được lòng dân, được dân ủng hộ, nhờ đó đã tạo nên cơ nghiệp và đánh tan quân Thanh xâm lược, giải phóng đất nước.

Bài học Quang Trung thấm sâu vào chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, ý nghĩa của việc lấy dân làm gốc.

Con đường đi tiếp vào Phan Thiết rồi vào Sài Gòn của Nguyễn Tất Thành cũng do cha mình sắp xếp, cụ nghè Trương Gia Mô và cụ Hồ Tá Bang, ông chủ của Công ty nước mắm Liên Thành là bạn của cụ Phó bảng. Do vậy, việc Nguyễn Tất Thành lưu lại dạy học ở trường Dục Thanh và vào Sài Gòn được hai cụ giúp đỡ rất nhiều.

Phần cụ Phó bảng, dù biết chính quyền không thích, sẵn sàng trừng phạt nhưng cụ không luồn cúi, chiều lụy, vẫn ngẩng cao đầu, vẫn xử lí bọn nhà giàu áp bức dân nghèo, sẵn sàng nhận án phạt, từ quan để rộng đường lo cho con trai.

Ngay khi biết Nguyễn Tất Thành vào đến Sài Gòn, biết cụ Phan Châu Trinh được Liên minh nhân quyền Pháp can thiệp, nên được tha đưa từ Côn Đảo về quản thúc ở Mỹ Tho, cụ Phó bảng liền bí mật tức tốc vào Sài Gòn. Tài liệu còn lưu lại bức điện của Khâm sứ Trung Kỳ số 8505 nói rõ “Nguyễn Sinh Huy được phát hiện, đã lên thuyền để đi gặp con trai Nguyễn Tất Thành và bàn bạc với Phan Châu Trinh”.

Sự có mặt kịp thời của cụ Phó bảng là sự hỗ trợ đắc lực và toàn diện, rất quan trọng cho ngày ra đi của con trai mình.

Ngày 2/3/1993, trong buổi làm việc với Bảo tàng Hồ Chí Minh, đồng chí Vũ Kỳ, thư kí của Bác Hồ đã nhắc lại lời Người: “Mình biết cụ (cụ Phan Châu Trinh) từ trong nước rất sớm, vì cụ là bạn thân của cha mình. Lúc đi Pháp là dựa vào cụ, ở Pháp cũng dựa vào cụ để sống và hoạt động…”.

Bác biết cụ Phan từ rất sớm, là vì cụ cùng đồng khoa Phó bảng, là bạn tâm giao với cha mình, là lãnh tụ của phong trào chấn hưng đất nước. Bác đã nhiều lần gặp và nghe cụ đàm đạo, diễn thuyết từ lúc còn niên thiếu.

“Lúc đi Pháp là dựa vào cụ”. Đó là lời giải cho câu hỏi của cụ Nguyễn Sinh Sắc: “Đến Pháp, đầu tiên con sẽ ở đâu?”. Cụ lo cho Bác, nên khi biết cụ Phan Châu Trinh được Liên minh nhân quyền Pháp can thiệp, được tha, đưa từ Côn Đảo về Mỹ Tho và sẽ đi Pháp, cụ đã nghĩ ngay đến việc đưa Bác đi Mỹ Tho để gặp cụ Phan. Tại cuộc gặp này, cụ Phan đã chỉ vẽ cho Bác về Paris, về nước Pháp và cho Bác địa chỉ nhà Luật sư Phan Văn Trường ở số 6 đường Villa des Gobelins, quận 13, nơi Bác có thể đến tá túc khi mới đến Paris.

Ở Sài Gòn cũng vậy, những địa chỉ gắn liền với Bác trong mùa xuân năm 1911 như nhà ông Nguyễn Đăng Hưng, tiệm giặt ủi của ông Ba Bùi Văn Tiêu hay nhà ông Trương Cao Nho, bếp trưởng tàu viễn dương ở đường Võ Thị Sáu, trụ sở Công ty nước mắm Liên Thành của cụ Hồ Tá Bang ở đường Châu Văn Liêm… đều là chỗ thân tình của cụ Nguyễn Sinh Sắc. Chính cụ đã có thư nhờ ông Trương Gia Mô, ông Hồ Tá Bang thu xếp cho Bác vào Sài Gòn. Nơi ở đầu tiên là ở Công ty Liên Thành. Cụ đã đưa Bác tới lui nhà ông Nho ở đường Võ Thị Sáu ngày nay để nhờ ông chỉ cho cách sống, cách làm phụ bếp trên tàu. Và ông Nho đã móc nối để Bác đến trụ sở của hãng tàu năm sao (hãng Chargeurs Réunis của Pháp) ở đầu đường Đồng Khởi, để xin và được giới thiệu xuống gặp thuyền trưởng tàu Amiral Latouche-Tréville xin việc. Từng bước đi, từng cung đoạn của Bác những ngày tháng ấy đều có sự chăm chút, thu xếp của cụ. Cụ vẫn nhắc đi nhắc lại với Bác: “Làm trai phải lo việc nước”, “Lo cho nước là có hiếu với cha”. Có thể thấy rằng, cả mùa xuân cho đến ngày 5/ 6/1911, cụ Phó bảng vẫn luôn bên con, lo cho con trai, và nung nấu ý chí, tạo con đường ra đi của Bác.

Sau ba mươi năm, chân trời góc biển, Bác đã trở thành lãnh tụ vĩ đại, lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng đất nước của dân tộc ta, là Anh hùng dân tộc, nhà văn hóa của nhân loại.

Lâu nay mọi người thường nhắc đến người mẹ, những bà mẹ vĩ đại, bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Đúng là những bà mẹ đã sinh ra những người con làm nên sự nghiệp, những người con hi sinh vì sự nghiệp của đất nước, nhưng lại ít nói đến người cha. Thật ra, vai trò người cha là rất to lớn. “Cha nào con nấy”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Châm ngôn Việt Nam đã có những câu như vậy. Và vì vậy, tôi nghĩ rằng cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hoàn toàn xứng đáng là người cha anh hùng, người cha vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

 

II

Trong những tháng ngày chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành lênh đênh chân trời góc biển, cụ Phó bảng mỏi mòn mong tin con. Cụ sống với bạn bè, đi các tỉnh miền Đông, đi Mỹ Tho, Tân An tuyên truyền giác ngộ yêu nước cho mọi người, và giữ trọn một niềm tin ở người con trai đang bôn ba của mình.

Giữa tháng 9, từ Pháp theo chuyến tàu trở về Sài Gòn, Bác đã lên trụ sở của hãng tàu để viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ xin chuyển 15 Franc trích từ những tháng lương đầu tiên, nhờ văn phòng hãng chuyển cho cha là Nguyễn Sinh Huy rồi xuống tàu tiếp tục hành trình, trong lòng luôn canh cánh nhớ thương cha già. Trong hồ sơ lưu trữ của mật thám Pháp còn giữ nhiều bức thư Bác gửi. Bức thư đề ngày 31/10/1911 của Bác gửi Colombo thông qua nhà chức trách Anh gửi Khâm sứ Trung Kì có đoạn viết:

Tôi đã tìm được việc làm trên tàu Đô đốc Latouche Trévilla... tôi đã dành được một số tiền nhỏ mọn muốn gởi về cho Cha tôi mà lại không thể gởi bằng giấy chuyển tiền được. Vì vậy tôi mạo muội nhờ quan lớn cấp giấy chuyển ngân cho Cha tôi, để ông có thêm mà sống”.

Và lá thư đề ngày 15/12/1912 gửi từ New York:

Từ giã đất nước, tôi để lại Cha già không nơi nương tựa. Dù tôi luôn gởi thư thăm hỏi nhưng tôi chỉ nhận được hai thư trả lời từ đó đến nay. Tôi đã gởi về ông ba lần tiền thì Cha tôi bảo chỉ nhận được có một lần, lần ấy tôi nhờ ngài chuyển lại cha tôi và ngài đã giúp. Bây giờ tôi chẳng còn biết cha tôi ra sao nữa! Tôi tính xin cung cấp cho cha tôi hằng tháng nhưng không biết... bằng cách nào. Nay tôi cũng không biết cả địa chỉ của ông. Còn tôi với nghề hàng hải cũng nay đây mai đó...

Tình thế của tôi bức xúc làm sao, sống cách xa người thân, muốn phụng dưỡng cũng không thể!...”

Không có tin tức gì của con, cụ Phó bảng càng đi nhiều hơn, liên lạc với nhiều nhóm chí sĩ yêu nước, trước hết là để cứu nước giúp dân như cụ hằng mong mỏi, mặt khác cũng hi vọng từ các đồng chí của mình, sẽ được tin về Nguyễn Tất Thành, người con trai mà cụ gửi gắm tất cả niềm hi vọng.

Năm 1917, cụ Phó bảng được bạn bè đón về Cao Lãnh (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Cụ tiếp tục làm nghề bốc thuốc chữa bệnh giúp dân, nhưng mục đích chính vẫn là tìm bạn cùng chí hướng để cứu nước. Cao Lãnh trở thành quê hương thứ hai của cụ. Từ đây cụ có rất nhiều chuyến đi đến An Giang, Châu Đốc, Bến Tre, Mỹ Tho, Long An, sang cả Campuchia. Những nơi cụ đến thường có phong trào yêu nước, có nhân sĩ yêu nước. Rồi cụ lên Sài Gòn gặp chiến hữu và dò tin tức con trai. Ngày ấy, ông Bùi Văn Tiêu (Ba Tiêu) là một người bạn tốt của cụ. Ông Ba Tiêu quê miền Bắc, tham gia phong trào chống Pháp, bị địch an trí bắt buộc ở Sài Gòn. Ông mở tiệm giặt ủi quần áo trên đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng), nhà ông Ba Tiêu là điểm tới lui liên lạc của các thủy thủ tàu viễn dương yêu nước. Tại đây, một lần cụ Phó bảng nhận được tin bán tín bán nghi: Có một thủy thủ Việt Nam bị bệnh chết, khi tàu chạy qua châu Phi và rất có thể, đó là Nguyễn Tất Thành. Dẫu là tin thất thiệt nhưng cũng làm cụ đau buồn, mất ăn mất ngủ mấy tuần liền, cụ nói với một người bạn: “nước mất, nhà tan, choa(2) như cánh bèo trôi...” Một người bạn của cụ đã lấy một quẻ dịch và xác định: Nguyễn Tất Thành vẫn còn sống và sẽ làm nên đại sự. Ở Cao Lãnh, cụ Phó bảng có nhiều bạn hữu, trong số đó cụ Lê Chánh Đáng, còn gọi là Chánh Nhứt, là người bạn chí cốt, người đồng chí của cụ. Hằng ngày, cụ Phó bảng làm cao đơn hoàn tán để cụ Đáng đi bán và vận động cách mạng. Thấy ai tiến bộ, cụ Huy đến “trợ giáo” thêm. Sở dĩ hai người trở thành bạn tâm đầu một phần vì sự hợp ý, hợp lòng trong ý tưởng chung, nhưng một phần nữa là Lê Văn Sao, con cụ Lê Chánh Đáng sau khi tham gia phong trào Đông Du thất bại đã sang Pháp và đến lui nhà số 6 đường Villades Goleline ở Paris với cụ Phan Châu Trinh và Bác Hồ.

Cuối năm 1919, cụ Phó bảng lại trở về Sài Gòn. Như mọi lần, nơi cụ đến trước tiên là nhà ông Ba Tiêu. Lần này gặp cụ, ông Ba Tiêu vui hẳn lên, đưa cụ vào phòng khách, chưa kịp mời nước, ông Ba Tiêu đã bí mật rút ra tờ báo Pháp Humanité (Nhân đạo), vui vẻ nói:

- Đây, đây, đọc đi, có cái này sướng lắm.

Ngay ở trang nhất có đăng Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Phía cuối có ghi: Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước. NGUYỄN ÁI QUỐC

Cụ Phó bảng đọc không sót một từ nào. Linh tính, cụ hồi hộp hỏi ông Ba Tiêu:

- Nguyễn Ái Quốc là ai, anh Ba?

- Trời, còn ai nữa. Nguyễn Tất Thành đó thôi.

Cụ Phó bảng đứng dậy, ôm ghì lấy Ba Tiêu.

- Ôi, anh Ba, thật vậy sao...

Cụ Phó bảng cảm động nói không ra tiếng, cười trong nước mắt...

Từ đó, cụ Phó bảng càng xác định được mục tiêu của đời mình: Hãy làm cho nhiều người Việt Nam, nhất là lớp trẻ yêu nước, thương nòi và lo cứu nước.

Theo tài liệu lưu ở Bảo tàng Phan Châu Trinh tại Đà Nẵng có ghi, từ tết 1926 khi cụ Phan Châu Trinh bệnh nặng, cụ Phó bảng đã túc trực bên cạnh cụ Phan, phần là bạn từ ngày đi thi tiến sĩ, phần góp sức cùng các thầy thuốc khác kể cả cụ Huỳnh Thúc Kháng, tận lực cứu chữa. Nhưng vì bệnh tình quá nặng, cụ Phan đã ra đi ngày 24/3/1926. Cụ Phó bảng cùng các chí sĩ lo liệu lễ tang cho cụ Phan và đã góp phần dựng lên những ngày nổi sóng mà mật thám Nam Kì gọi là “một cuộc biểu tình vĩ đại chưa từng thấy” (Manifestation grandiose inconnue jusqu’ici).

Trong tài liệu còn lưu lại của Sở Mật thám Pháp có những bức thư của cụ Phó bảng gởi cho “mẹ nuôi”, “cho cô” và “cho bạn”. Nội dung thấy rõ cụ đang ở trong một tổ chức của những người yêu nước. Lá thư đề ngày 15 /4/1928 “gửi cho cô, mẹ nuôi”, cụ đề nghị xin gặp “để tôi có thể thưa chuyện với cô nhiều công việc hệ trọng, việc riêng mình và bí mật”. Lá thư đề ngày 28/4/1928 có câu: “Vì vậy tôi không dám tự tiện xử sự, tôi yêu cầu nhận được lệnh của cô về việc này”.

Cụ còn dặn “cô và mẹ nuôi” khi gửi thư cho cụ nhớ dùng phong bì có in tiêu đề của nhà hàng Hưng Thạnh, mang con dấu tên của cô. Nếu thiếu phong bì ấy thì chỉ dùng phong bì cũ mang lá thư tôi gửi cô để đựng phong thư của cô, tôi mới tin là thật được. Hoặc “Trong việc trao đổi thư từ của chúng ta, tôi làm một dấu riêng và hình vẽ kèm theo”. Cũng trong thời gian này, một trong những bức điện của Chánh sở mật thám Arnoux công văn mật số 1416S ngày 12/5/1928 còn lưu lại như sau:

Nguyễn Sanh Huy, bố đẻ Nguyễn Ái Quốc hiện ở nhà tên Năm Giáo, làng Hòa An (Cao Lãnh) từ ngày 16/4/1928. Ông ta sống ẩn náu ở đây, khi có dịp thì đi làm thầy lang chữa bệnh.

Ở làng Hòa An, có một nhóm chống Pháp. Trung thành với Nguyễn Ái Quốc và có mối liên lạc với Đảng Đỏ ở Quảng Châu. Trong những người tham gia nhóm này có những tên Lê Chánh Đáng, Hương chủ Sành, Hương Trưởng Đê, Phó hương quản Đệ, Nguyễn Văn Biểu tức Thót và Trần Kim Ngô tức Sáu Nhồng.

Tên Mai Văn Kiệu, con Hương trưởng Đê trên đây cũng thuộc trong một tổ chức gọi là “Tả đạo bàng môn” thành lập tại Rạch Giá.

Các tên trên đều tỏ ra tích cực hoạt động. Người ta kể lại một tên trong bọn này đã nói với người thân cận y như sau: “Nếu sau này mà yên được sẽ có danh vọng”.

Tôi yêu cầu ông Ủy viên đặc nhiệm chỉ huy các đội lưu động cho theo dõi chặt chẽ bố đẻ của Nguyễn Ái Quốc cùng những người hay lui tới gặp ông ta. Cần thu nhập những tin tức thật chi tiết về nhóm tả đạo bàng môn ở Rạch Giá.

Những tài liệu trên đây cũng chứng minh rằng cụ Phó bảng suốt đời là một chí sĩ hoạt động cho phong trào yêu nước chống Pháp. Nhìn lại toàn bộ cuộc đời của cụ lúc còn ở quê và quá trình xuyên Việt cũng như những năm cuối đời, cụ có quan hệ mật thiết và hợp tác với nhiều nhà yêu nước nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Vương Thúc Quý, Vương Thúc Mậu, Nguyễn Hàn Chi, Trần Quý Cáp, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến, Dương Bá Trạc, Nguyễn An Ninh, Trương Gia Mô... Cụ Phan Châu Trinh trong một lần đàm đạo với cụ Phó bảng tại Mỹ Tho đã khẳng định với cụ Phó bảng: “Việt Nam độc lập sau này sở cậy vào Nguyễn Ái Quốc. Sứ mạng con cụ quả thật to lớn, nặng nề; sự nghiệp của con cụ cũng là sự nghiệp của cả thế hệ trẻ vô cùng xán lạn. Nay cụ đã quá lục tuần, gối mỏi, lưng còng; nhìn lại những việc đã làm trong năm tháng qua, không phải là vô ích đối với sự nghiệp của con, của thế hệ trẻ, của cả dân tộc.

Với năm tháng còn lại của cuộc đời, cụ sẽ tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp cao cả trên bằng cách của mình: Ngấm ngầm vận động liên kết các sĩ phu yêu nước, âm thầm bồi dưỡng kích động lớp thế hệ trẻ...”(3).

Trong những lần về Sài Gòn, cụ Phó bảng gặp vài anh em trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập mới từ Quảng Châu về. Những lần như vậy cụ rất vui, vui như được gặp con trai của mình... Một lần biết Lê Mạnh Trinh sắp sang Quảng Châu, cụ dẫn anh đến một quán chè, gọi hai chén, một chén đặc biệt có trứng gà đãi anh. Cụ dặn các anh sống xa quê phải yêu thương nhau và nhắn: “Bác nghe nói Quốc (Nguyễn Ái Quốc) đang ở Quảng Châu. Cháu gặp thì nói bác vẫn khỏe, đừng lo. Hãy toàn tâm lo việc quốc sự, cứu nước là có hiếu với cha”.

 

III

Tại Cao Lãnh, những năm cuối đời, cụ Phó bảng ở nhà ông Năm Giáo. Hằng ngày, cụ đi bộ ra chợ Cao Lãnh xem mạch, kê toa ở tiệm thuốc Hằng An Đường. Trưa, cụ về nhà ông Năm ăn cơm do cô Ba Ênh và vợ chồng Bảy Mân nấu giúp. Cụ ăn uống thanh đạm như mọi cụ đồ xứ Nghệ. Tại mảnh đất Cao Lãnh, cụ đã chứng kiến sự ra đời của tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng và tháng 9/1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Cao Lãnh.

Vì tuổi già sức yếu, cụ Phó bảng không thể làm gì được hơn, nhưng hạt giống đỏ cách mạng đang nảy mầm ở Việt Nam có sự cày xới, chăm bón, ươm mầm của cụ và những người yêu nước trong suốt gần hai chục năm. Cụ càng vui hơn khi biết tổ chức Đảng Cộng sản đã ra đời ở Việt Nam và đảng này là theo ý hướng của Nguyễn Ái Quốc, niềm hy vọng thiêng liêng của cụ.

Suốt đời cụ Phó bảng luôn sống thanh bạch, liêm khiết, không bao giờ tiệc tùng đình đám - kể cả khi đậu Phó bảng và lúc được thăng quan. Thế nhưng, lần này, tại Cao Lãnh cụ lại bỏ tiền mua một con heo làm thịt, mở tiệc, khoản đãi bạn hữu tri ân. Cụ nói là để tạ ơn tổ tiên trời đất. Những người thân thiết với cụ như ông Chánh Nhứt Đáng thì cho rằng: “Cụ mở tiệc để trước hết mừng hạt giống đỏ nảy mầm ở Cao Lãnh. Sau là, cụ biết sức mình đã mãn, muốn cảm tạ bà con bè bạn ở quê hương thứ hai của mình”. Cụ Phó bảng thường nói: “Ở đây tôi có các bác, có bà con bạn hữu thương tôi hơn cả ruột thịt”.

Một tài liệu lưu ở Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp của ông Nguyễn Văn Thiện, một người kề cận cụ Phó bảng những tháng năm cuối đời, ghi lại: Trong bữa tiệc hôm đó, cụ Phó bảng vui cười đi từ bàn này sang bàn kia chào hỏi, chúc tụng, cảm tạ mọi người. Trong lời khai tiệc, cụ nói:

“... Tôi già yếu rồi, không còn sống được bao lâu nữa. Tôi đã từng đi đó đi đây, kết bạn với nhiều người, biết hoàn cảnh tối tăm của đất nước mà kêu gào. Nay việc tôi làm chưa được đến đâu mà sức đã kiệt. Nhưng tôi rất vui mừng vì thấy trong nước đâu đâu cũng có lớp trai trẻ hăng say lo việc lớn. Nhất định ngày phục quyền quốc dân không còn xa đâu.

Một lần nữa, tôi hết sức cảm ơn bà con mình ở đây đã bảo hộ tôi: ăn không thiếu, ngủ được yên, tình sâu nghĩa nặng đối với tôi. Tôi hết sức cảm phục bà con chịu nghe lời bàn quốc sự, chịu làm việc ích quốc gia lợi dân, thương yêu đùm bọc lẫn nhau: Nhứt gia hữu sự bá gia ưu, đó là quý lắm. Tôi có chết gởi thân nơi đây cũng mãn nguyện”.

Người ta thường nói những người già sống có tâm có đức thường trước khi rời cõi đời đều có linh tính biết trước. Có lẽ cụ Phó bảng là một trong những người được báo trước đó. Sau bữa tiệc chưa đầy một tháng, cụ lâm bệnh nặng. Bạn hữu thân thiết hết cách chữa trị, đưa cả sang Sa Đéc nhờ cụ Hoành, nhưng cũng không khá lên được. Khi xuồng chở cụ từ Sa Đéc về Cao Lãnh, cụ Phó bảng muốn được đưa vô nghỉ và chết ở chùa Hòa An để đỡ phiền lụy bạn bè. Nhưng mọi người không nghe, cụ Đáng và các cụ khác phải thuyết phục mãi, cụ mới chịu trở về nhà ông Năm Giáo. Bốn ngày sau, bệnh trở nặng. Đêm cuối cùng, cụ nhờ ông Hai Thiện đỡ ngồi dựa gối nói chuyện với cụ Chánh Nhứt Đáng và ông Năm Giáo:

- Anh Chánh Nhứt với anh Năm à, tôi đi ngày 26 là tốt lắm. Khi tôi chết, quan tài mua về để ngoài sân, tẩm liệm xong đem chôn ngay đừng để lâu. Tôi nhờ anh nói với Sáu Học cho tôi nằm ở phần đất của Sáu Học phía gần chùa Hòa Long. Anh Chánh Nhứt, anh nhớ đừng để ai chôn tôi chỗ khác.

Cụ cho lấy trong tay nải ra hơn 150 đồng trao cho Năm Giáo:

- Tôi còn chừng này tiền, anh giữ lấy để mua quan tài và các thứ cần thiết khác giùm tôi.

Ông Năm Giáo nhận tiền rồi trao lại cho ông Bảy Mân.

Cụ Phó bảng trầm ngâm giây lát, nhìn mọi người tâm sự:

- Tôi có ba người con, Hai Thanh, con gái đầu, bà con ở đây biết rồi, nó vì tham gia với Đội cung mà bị án khổ sai, người con trai lớn theo cánh ông Phan Bội Châu bị giam cầm ở Huế; còn người con út Nguyễn Tất Thành hồi ở Sài Gòn tôi có ở chung. Tôi bàn với nó đi qua bên Tây liên kết với phe chống đối Nhà nước Pháp bên chánh quốc, bên đó có nhiều phe yêu nước, họ mạnh lắm, tìm cách liên kết với họ rồi thông đồng với bên mình. Khi nào bên Tây đảo chánh thì có người bênh vực mình, bên này dân mình đứng lên lật đổ Tây mới được...

Cụ Phó bảng bảo cụ Hai Thiện bưng cái tráp lại, lấy tặng cụ Chánh Nhứt Đáng một toa thuốc gia truyền và một xấp thơ. Nhờ cụ Đáng trao cụ Hoành gởi cái tráp về Huế cho con gái Hai Thanh.

Cụ Đáng bảo Hai Thiện đỡ cụ Phó bảng nằm xuống. Cụ nhắm mắt, lịm dần và nhẹ nhàng ra đi vào lúc xế chiều(4).

Cụ Phó bảng mất ngày 27/10 năm Kỷ Tỵ, tức ngày 27/11/1929. Chỉ chưa đầy 100 ngày sau đó, Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc hợp nhất ba tổ chức An Nam Cộng sản Đảng (ở Nam Bộ), Tân Việt (ở Trung Bộ) và Đông Dương Cộng sản Đảng (ở Bắc bộ) đã được thành lập ở Hương Cảng (Hồng Kông).

Cụ Phó bảng ra đi rất thanh thản và mãn nguyện. Bạn bè chôn cất đúng nơi cụ muốn, chỉ thương con trai, con gái không ai có mặt để vĩnh biệt. Trong đám có một vành khăn tang, là của Lê Thị Huệ, bạn gái con trai cụ. Cô đã đến chịu tang và cùng mọi người lo đám tang của cụ.

Bà cả Thanh, con gái cụ, phải gần 49 ngày mới vượt qua sự cản trở của bản án lưu đày, để từ Bắc vào Nam cùng cô Út Huệ dẫn đường đến thọ tang cha và cảm ơn hàng xóm đã chung tay đưa tiễn người cha thân yêu của mình về nơi yên nghỉ cuối cùng.

 

IV

Suốt hai cuộc kháng chiến, kẻ thù luôn luôn tìm cách phá hủy mộ phần của cụ nhưng quân dân Đồng Tháp - Cao Lãnh đã bảo vệ vẹn toàn. Tháng 7 năm 1954, trước khi rút quân đi tập kết, quân dân Cao Lãnh đã xây lại mộ cụ. Tấm ảnh quân dân Cao Lãnh chụp bên mộ cụ những ngày này được gửi đến Bác. Bác đã để tấm ảnh vào một hộp nhỏ đặt nơi trân trọng trong phòng làm việc. Ngày nay, tấm ảnh và chiếc hộp vẫn được lưu giữ như một bảo vật. Nó là biểu tượng cụ thể về tình cảm sâu đậm, lòng hiếu thảo của Bác Hồ với cha.

Ngay sau khi miền Nam được giải phóng, ngày 19/5/1975, quân dân tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp ngày nay) đã tổ chức một buổi lễ trọng thể rước ảnh, rước anh linh Bác Hồ về viếng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Hàng ngàn bà con Cao Lãnh, Sa Đéc có mặt hôm ấy đều cảm động và nghĩ như đang rước Bác Hồ vô thăm miền Nam, đang cùng Người đến viếng người cha vĩ đại.

Gần hai năm sau (ngày 13/2/1977), Khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã xây dựng xong. Ngôi mộ cũ được ốp đá hoa cương, nằm dưới mái vòm bê tông cao 10m. Mái vòm cách điệu như một lá sen của Đồng Tháp, đầu chín gân lá có chín con rồng vươn ra phía trước tượng trưng cho đồng bằng sông Cửu Long, đất chín Rồng. Phía trước mặt là một hồ sen có hình ngôi sao năm cánh, mỗi cạnh dài 30m, giữa hồ là một đài sen đứng thẳng cao gần 7m tượng trưng cho cuộc đời thanh cao của cụ Phó bảng.

Buổi lễ khánh thành trang trọng Khu di tích với sự có mặt đại diện của Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay mặt Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã về dự. Luật sư tâm sự: “Mẹ Bác mất ở Huế, cụ thân sinh nằm ở đây. Tôi nghĩ có lẽ cũng là một sự sắp đặt đúng tâm nguyện của Bác. Miền Nam không chỉ tiễn Bác ra đi tìm đường cứu nước, miền Nam đã giữ một phần ruột thịt của Bác. Chính vì vậy, Khu di tích cụ Phó bảng là một dấu ấn rất sâu đậm góp vào trang sử miền Nam trong tim Bác”.

Nơi yên nghỉ cuối cùng của cụ Phó bảng ngày nay là một Khu di tích lớn, có khuôn viên rộng. Trong đó, có gian trưng bày về cụ Phó bảng và gia đình Bác Hồ; có nhà triển lãm hình ảnh hiện vật về đời hoạt động của Bác và đặc biệt, có khu nhà sàn làm y cỡ như nhà sàn Bác ở Hà Nội với sự phục chế đầy đủ các hiện vật.

Lúc sinh thời, cụ Phó bảng thường nói: “Tôi sinh ra ở xứ sen vàng (làng Kim Liên), tôi lang thang khắp miền đất nước, ngày nay xế bóng trụ lại ở xứ Đồng Tháp này, tôi chỉ có một ước nguyện được làm một bông sen nhỏ”.

Cụ Phó bảng nằm đó. Cụ là đóa sen hồng vĩ đại mãi mãi ngát thơm giữa lòng Tổ quốc, và trên nữa cụ là một người cha anh hùng, một người cha vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

T.Q.P
---------------------------------

1. Sau khi đậu Phó bảng, khi về làng Sen vinh quy bái tổ, cụ đã quyết định đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, và đổi tên cho hai con trai: Nguyễn Sinh Khiêm thành Nguyễn Tất Đạt, Bác Hồ từ Nguyễn Sinh Cung thành Nguyễn Tất Thành.

2. Choa: tôi (âm xứ Nghệ).

3. Theo Khu Di tích Nguyễn Sinh Sắc: Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Đồng Tháp, 1994.

4. Theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Thiện. Tài liệu lưu tại Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc (Cao Lãnh, Đồng Tháp).