Chủ Nhật, 20/04/2025 05:06

Người lính mang thông điệp đoàn viên

Một ngày nọ, khi thời gian đã rong rêu trên muôn dặm nẻo đường chiến tranh của thế kỉ XX (Nhà phê bình KHUẤT BÌNH NGUYÊN)...

. Nhà phê bình KHUẤT BÌNH NGUYÊN

Một ngày nọ, khi thời gian đã rong rêu trên muôn dặm nẻo đường chiến tranh của thế kỉ XX, bỗng đâu tôi đọc được những đoạn văn trang nghiêm mà trầm mặc phủ lên sự ngầu tươi máu lửa và dồn nén nghẹn ngào cảm xúc của người lính trận.

Một trận đánh vùng Bình Định, Phú Yên, Phan Rang tháng 3/1975.

Một hồi ức về cuộc gặp mặt giữa hai anh em vào mùa hè 1972 trong ngôi nhà xưa vốn là nơi đã sinh ra họ. Người anh là sĩ quan pháo binh, theo cha ra Bắc tập kết trở về. Người em là sĩ quan pháo binh của chế độ Sài Gòn, ở lại miền Nam với mẹ.

Một nữ du kích giải phóng bị bắt.

Người viết những đoạn văn đó đã nghiền ngẫm vào ngay năm 1975, khi chiến cuộc lâu dài và ác liệt vừa kết thúc, ngay trước cửa của ngôi nhà hòa bình bị tàn phá hoang tàn. Người ấy là một người lính - đại tá, nhà văn quân đội Nguyễn Trí Huân, người đi khắp nẻo đường mười năm chiến tranh ở Bắc, Trung, Nam và trên bán đảo Đông Dương cũng như trên bao nhiêu nhọc nhằn của trường văn trận bút.

Bây giờ Nguyễn Trí Huân nghỉ hưu làm một người thường lặng lẽ. Có thời giờ trông đứa cháu nội bé bỏng tập lật trên giường khi chưa ngóc đầu dậy được cho đến lúc bấu vào thành giường đi những bước đầu tiên. Trong một con ngõ hẹp đường Lý Nam Đế, Hà Nội. Giữa mùa dịch giã bao vây. Con ngõ dài chừng hai trăm mét muốn đi trở ra phải quay trở lại ấy nắng mưa có tới ba người lính làm nên văn nghiệp. Tất cả họ đã đi hàng vạn kilômét trường chinh để về được đến đây. Mặt tiền của ngõ gia binh chen chúc này nhìn ra đường tàu hỏa năm 1926 đã từ Nam ra đất cố đô đến bây giờ ngày đêm vật vã nhắc nhở rằng cuộc đời này vẫn còn xuôi ngược biết mấy gian nan. Tiếng súng của những cuộc chiến tranh tưởng lùi vào dĩ vãng mà vẫn khoét vào vách nhớ của kí ức con người. Mỗi một số phận người lính trên đất nước nhỏ bé này để về được cái ngõ gia binh xoàng xĩnh ấy phải trải qua bao nhiêu thử thách. Cuốn sách viết bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Việt có tiêu đề The War 1858 - 1975 in Vietnam nhìn toàn cảnh về cuộc chiến giành và giữ nền độc lập của dân tộc ta trong thế kỉ hiện đại ác liệt và đau thương như thế nào để đến ngày chiến thắng. Thông điệp của dân tộc ấy khẳng khái nói với nhân loại điều gì về phẩm giá của người Việt Nam sau những năm dài chiến trận? Hồi kí Nhìn lại quá khứ của R.McNamara kể về trận giao chiến giáp lá cà đầu tiên từ ngày 14 đến ngày 19/11/1965 ở thung lũng Iđrăng B3 giữa hai trung đoàn chủ lực với những sư đoàn thiện chiến nhất của Mĩ: “Một trận đánh dữ dội giữa vùng cỏ voi và những ụ kiến cao bằng đầu người... 300 lính Mĩ đã bị giết... Quân Bắc Việt Nam đã lựa chọn địa điểm, thời gian và thời lượng tham chiến… suốt cuộc chiến tranh.” Có một cái nhìn khác viên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mĩ, nơi tiểu thuyết của một nhà văn Việt Nam mô tả trận đánh ở B3: “Các đại đội của ta tan tác. Không lính không quan gì nữa rùng rùng lao chạy... Trên đầu trực thăng Mĩ rà rạp các ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy những người lính Việt Nam mà bắn... Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét... Tiểu đoàn trưởng (Việt Nam) gào to, như điên, mặt tái dại: Thà chết, không hàng... Rồi rút súng lục tự đọp vào đầu... Mưa ập xuống. Bãi chiến trường ngập nước lềnh bềnh xác người sấp ngửa...”

Cùng một cuộc chiến tranh, có hai cách nhìn thật khác nhau. Cho dù trận đánh ấy của nhà văn là 100% sự thật, thậm chí còn cay đắng hơn nữa, nhưng tôi cứ băn khoăn: Liệu có phải là tiêu biểu cho người lính Việt Nam ở cuộc chiến mà họ là chính nghĩa hay không? Lương tri người Mĩ nghĩ gì? Liệu họ có hả hê chăng khi binh lính của họ như bầy thú săn người man rợ? Phải chăng nhà văn muốn gửi thông điệp đó tới Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kì và vạch trần tính man rợ của cuộc chiến?

Bởi thế, khi đọc Năm 1975 họ đã sống như thế Chim én bay, tôi nóng lòng muốn biết người lính nằm lại trên võng im lìm giữa núi rừng Trường Sơn năm ấy. Những người chôn súng lại rút lui khi già nửa quân số vùi trong bom đạn giặc. Những người lính trào máu trên chiến hào bề bộn xác giặc. Những người lính anh em ruột thịt đứng ở hai trận tuyến chia đôi ngay trên mái nhà của họ. Những người du kích bị giặc tra tấn hành hạ khủng khiếp. Họ sẽ kết thúc cuộc chiến tranh ấy như thế nào? Họ nghĩ gì? Ước vọng của họ ra sao? Khi đất nước rải thảm cỏ hòa bình trở lại trên mảnh đất đầy máu và nước mắt?

Có người cho rằng, thể loại tiểu thuyết như là xương sống của nền văn học. Kể từ năm 1960 trở đi, trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện những bộ tiểu thuyết tầm vóc, tỏ rõ sự trưởng thành vượt bậc của văn xuôi kể từ đầu thế kỉ XX. Chưa bao giờ nguôi ngoai chủ đề chiến tranh và hình tượng người lính Việt Nam. Nền tiểu thuyết hiện đại không bao giờ ca ngợi chiến tranh mà kiêu hãnh làm sáng tỏ những phẩm giá tuyệt vời của người lính thông qua thân phận và tâm trạng con người. Có hai khuynh hướng của tiến trình ấy. Tiểu thuyết như là khúc ca bi tráng và tình yêu tuyệt vời của họ. Dấu chân người lính, Mẫn và tôi... là sách gối đầu giường cho nhiều thế hệ ra tiền tuyến. Một khuynh hướng khác xuất hiện muộn hơn, tái hiện những đau thương mất mát, sự tàn độc và man rợ của chiến tranh, những hậu quả đau lòng kéo dài sau khi chiến tranh kết thúc: Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng...

Những chiến sĩ "mũ nồi xanh" tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình liên hợp quốc. Ảnh: TL

Năm 1975 họ đã sống như thế (viết từ 1975 đến 1978, in năm 1979) và Chim én bay (viết xong tháng 10/1987, in năm 1988) là hai bộ tiểu thuyết đáng kể hơn cả trong gia tài văn chương Nguyễn Trí Huân. Bằng hai tác phẩm này, ông đã được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Năm 2007, Chim én bay được dịch ra tiếng Nhật. Điều đáng lưu ý là cả hai tiểu thuyết thống nhất cách tiếp cận cuộc chiến tranh và chung một thông điệp rất nhân bản về số phận con người sau khi cuộc chiến kết thúc. Năm 1975 họ đã sống như thế được viết ngay năm 1975 khi cuộc chiến đã dừng mà tưởng như chưa nguội lửa, kịp thời lí giải suy tư và ước vọng của người lính vừa bước ra khỏi chiến trường. Tính hấp dẫn của tiểu thuyết và bản lĩnh của nhà văn trong tư tưởng và nghệ thuật văn chương là ở đó.

Năm 1975 họ đã sống như thế kể về cuộc chiến đấu của một sư đoàn quân giải phóng ở hướng thứ yếu của chiến dịch từ chiến trường Bắc Bình Định qua Phú Yên, Phan Rang rồi đến Vũng Tàu, Côn Đảo. Tuyến phát triển của truyện chủ yếu theo chiều thời gian với diễn biến tâm trạng và số phận những nhân vật của tiểu đoàn bộ binh và tiểu đoàn pháo binh trong một trung đoàn. Nhìn vào tiêu đề tiểu thuyết, có thể có ý nghĩ rằng thể tài phóng sự dễ bị các sự kiện lôi cuốn sẽ đưa chất tiểu thuyết lùi xuống hàng thứ hai. Nhưng Nguyễn Trí Huân đã tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh, làm chủ được tư duy nghệ thuật khiến cho tiểu thuyết phóng sự này đã mở ra một không gian tiểu thuyết hấp dẫn mà chân thực qua tâm trạng và số phận của người lính trận ở cả hai phía. “Họ” ở đây bao gồm cả người lính giải phóng (đương nhiên là ở hướng chính diện và chủ yếu) và cả lính ngụy Sài Gòn. Bởi thế cho nên Năm 1975 họ đã sống như thế mở đầu bằng nhật kí của viên thiếu úy ngụy chết trận để lại với một sự trân trọng của những người hiệp sĩ với nhau. Nhật kí đó là của một người có học bị bắt đi lính, bộc lộ tâm trạng về sự phi lí và phi nghĩa của chiến tranh; căm ghét sự giả dối, thối nát và tham nhũng... của các sĩ quan cao cấp. Cách mở đầu này cho thấy hướng tiếp cận cuộc chiến tranh với dụng ý của tư tưởng nghệ thuật. Vào thời điểm 1975 - khi chưa xuất hiện những nhật kí chiến trường của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc và nhiều người khác - cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Trí Huân đáng được ghi nhận.

"Năm 1975 họ đã sống như thế” trong một sư đoàn có tới tám, chín cặp đôi của một gia đình. Người ở bên này, người ở bên kia. Tiêu biểu cho cặp đôi nhân vật đó là hai anh em Phác và Phán mà chúng ta đã nhắc ở phía trên. Họ gặp nhau tại căn nhà của mình trước khi bước vào những trận đánh sinh tử. Sư đoàn của Phác đuổi giặc từ Bình Định đến Vũng Tàu, bắt sống cả tướng hoàng tộc Nguyễn Vĩnh Nghi. Nhưng cứ sau mỗi trận đánh ác liệt, Phác vẫn thấp thỏm đi tìm liệu có xác người em của mình hay không, nó đang ở đâu trong khói lửa chiến tranh này… Nguyễn Trí Huân đã lí giải sự mong muốn đoàn viên xuất phát từ phía viên trung tá pháo binh. Khi đã leo lên tàu Mĩ trốn chạy, anh tự nguyện nhảy xuống biển bơi vào bờ. Cuộc gặp giữa hai người thật cảm động. Người em khô héo cúi xuống nói: “Tôi không thích đi Mĩ. Tôi đã chán hết trơn trọi.” Còn người anh thấy nhói lên một niềm thương không sao cắt nghĩa được. Rằng “đất nước, nhà cửa, anh em sẽ vẫn là của nó”. Sự đoàn viên của gia đình Việt Nam là không thể khác được.

Ở một khía cạnh khác, khi người lính giải phóng - Mạc chính trị viên tiểu đoàn bộ binh - trở về nhà, người vợ trẻ đẹp của anh ở hậu phương ngoại tình có con với người khác, lí do mà Mạc từ đi B ngắn xin đi B dài. Khi gần kết thúc tiểu thuyết, chúng ta lại có một nhật kí khác - nhật kí của Mạc viết trước trận đánh cuối cùng khoảng ngày 26 - 27/4/1975 và hi sinh. Mạc bộc trực, rằng chưa hết lòng tin ở vợ, rằng khi hòa bình sẽ đưa vợ về nông thôn hay một công trường xây dựng, rằng “mình là người lính, phải có trách nhiệm với lỗi lầm của người khác”… Nhưng anh không kịp làm được nữa rồi. Một cuộc đoàn viên dang dở nhưng sáng ngời phẩm chất của người lính Việt Nam. Quả cảm, giàu lòng yêu thương và tha thứ.

Hai người lính ở hai phía. Hai cuốn nhật kí để lại đều rất đáng được trân trọng. Năm 1975 họ đã sống như thế còn dự báo hoặc cho thấy sự đoàn viên của tình yêu lứa đôi giữa Thức chính ủy trung đoàn với Thư y tế trạm phẫu; giữa Thoại tham mưu trưởng tiểu đoàn pháo và Phúc vốn là du kích bị cụt cả hai chân vì tra tấn của địch; giữa Thiết chiến sĩ giải phóng với người con gái lưu lạc bởi hai mươi năm chiến tranh của sư đoàn trưởng... Bất chấp chiến tranh, người Việt Nam vẫn yêu thương tha thiết và tìm về sự đoàn viên hạnh phúc theo cách của mỗi người.

Năm 1988, tiểu thuyết Chim én bay được xuất bản. Chim én bay kể về sự tích người nữ du kích anh hùng tên Quy ở Bình Định. Anh và chị ruột Quy bị tên giám Tuân hạ sát bằng cách đánh bộc phá làm sập hầm trên lưng chừng bờ giếng khơi và dùng xe GMC kéo lê xác rách nát trên đường. Cha bị giám Tuân đe dọa khủng bố cho đến chết. Nợ nước thù nhà, Quy tham gia đội chim én ba lần đi xử tội tên Tuân. Lần thứ nhất Quy không nỡ bắn vì Tuân ẵm đứa con trai nhỏ trên tay. Lần thứ hai bắn bị thương. Lần thứ ba một mình Quy vào thẳng căn cứ địch xử tử Tuân. Quy bị bắt và bị đày đi nhiều nhà tù. Rồi chị được Mặt trận đưa ra Bắc chữa trị, được đi nước ngoài học tập, được bầu vào Quốc hội, được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang… Người phụ nữ ấy nghĩ gì sau chiến tranh? Ngay ở năm dòng đầu tiên của Chim én bay, Nguyễn Trí Huân đã bộc lộ một tư tưởng về không gian nghệ thuật rất nhân bản là trao cho người du kích ấy cái ý định tìm lại nhà của những tên ác ôn xem vợ con họ sống ra sao để mà giúp đỡ. Người nữ du kích ấy không phải là kẻ tu hành đi ra từ mái chùa của Phật hay thánh đường của chúa Jesu. Chị đi ra từ cuộc chiến tranh ác liệt mà bản thân gánh nhiều hậu quả nhất. Quy đã mất chức năng làm mẹ và nhiều bệnh tật giày vò hành hạ. Tình yêu của Quy với người đội trưởng du kích tên Cường đã không thành vì chị tự nguyện không muốn Cường gánh chịu hậu quả không sinh nở. Cả mối tình qua thư với anh trung đoàn trưởng sư đoàn Sao Vàng cũng không kịp thực hiện khi Quy chết vật vã trên giường bệnh. Không chờ kịp đến tháng giêng mùa xuân người yêu hẹn trở về cho cuộc đoàn viên chồng vợ. Nhưng chủ nghĩa nhân văn và tính nhân bản của tiểu thuyết bắt đầu khi hòa bình lập lại, người nữ du kích không may mắn ấy đã trở về con đường xưa ngập bóng râm của những vườn dừa đang cho lứa quả đầu tiên, đến những gia đình vợ con người có nợ máu với cách mạng để tìm cách cưu mang. Một thông điệp đoàn viên khác cho xứ sở đau thương và giàu lòng nhân ái này. Con đường đoàn viên ấy thật khó khăn khi phải vượt qua sự kì thị của cả xã hội và của ngay những người ở phía bên kia... Điều an ủi cho tất cả những người trải qua thù hận, khổ đau và cay đắng đến cùng cực là đã tìm về được mái nhà chung của yêu thương, tha thứ và đùm bọc. Số tiền ít ỏi của một nữ chiến sĩ du kích như Quy đã được chuyển đến cho đứa con của kẻ ác, đứa con được chính hắn bế trên tay mười năm trước mà Quy đã kìm lại phát súng của lòng căm thù.

Thông điệp của một đời người lính - nhà văn Nguyễn Trí Huân qua những dòng giản dị, chân thực và xúc động thật rõ ràng. Tôi nghĩ đó cũng là một trong những thông điệp mà dân tộc ta muốn nói với nhân loại rằng chúng ta là những người hiểu hơn ai hết cái giá của chiến tranh, cái giá của hòa bình. Sau những gì đau thương mất mát là đoàn viên, hòa hợp dân tộc. Đó là tiếng nói khẽ khàng về lòng cao thượng, đức hi sinh và sự khiêm nhường vô bờ bến của người lính cách mạng Việt Nam. Một giá trị sống rất nhân bản của lịch sử hiện đại.

Từ năm 2000 trở đi, sự đoàn tụ gia đình, sự hòa hợp dân tộc sau chiến tranh dường như đã trở thành lẽ đương nhiên của cuộc sống. Năm 2004, Nguyễn Cao Kỳ về quê Sơn Tây ăn tết. Ông ấy cũng nói chuyện đoàn viên. Nhưng lịch sử đi đến được điều đó đâu phải dễ dàng. Vì vậy những tư tưởng nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân rất đáng trân trọng. Bởi vì nhà văn đã sớm suy ngẫm và khẳng định điều này. Không phải bằng những giáo lí khô khan mà bằng cả một thế giới nghệ thuật do ông xây dựng nên. Ngay từ giữa năm 1975 khi các mặt trận vừa im tiếng súng và những người lính hối hả lên những chuyến tàu trở về với hòa bình. Rất nhiều trong số triệu người lính ấy vội về nhà để đi lấy vợ và cày nốt thửa ruộng còn bỏ dở hai mươi năm trước. Nguyễn Trí Huân đã ở lại với chiến trường trên những trang văn còn nóng hổi sự kiện và giao thoa với muôn ngàn kí ức của người lính trận, kịp thời lí giải suy tư và ước vọng cho hàng triệu con người thông điệp về sự đoàn viên và hòa hợp giữa những người anh em li tán trong niềm vui của độc lập, thống nhất, tự do, hòa bình và hạnh phúc.

Giữa mùa dịch giã đầy lo âu của đất nước, như một cách để bình tâm, tôi mang Nguyễn Trí Huân ra đọc lại. Đọc cái thế giới tinh thần của ông, cái không gian nghệ thuật do ông tưởng tượng ra và tìm thấy sự đồng điệu của bản thân mình và của bao người bạn khác. Làm bạn một nhà văn, nếu không đọc tác phẩm của họ, sao có thể hiểu được bản thân họ. Bởi vì ở đấy nhiều khi họ sống nhiều hơn cuộc sống đời thường của họ. Tự dưng tôi nghĩ: Nguyễn Trí Huân nếu không là một nhà văn có trách nhiệm thì làm sao có thể viết chân thực mà mê hoặc được người ta đến thế? Đôi khi tôi lại tự hỏi: Với dáng vẻ khiêm nhường và hiền lành kia, sao ông có thể viết nên những đoạn văn nóng bỏng yêu thương của những con người khắc khổ một thời xa đằng đẵng đằng sau cánh cửa mơ hồ của thế kỉ XX đã khép lại rồi, những đoạn tình chắt chiu lửa ấm mà đôi khi lặng lẽ trong đời văn gian khổ của một người trận mạc?

K.B.N