Thứ Hai, 31/08/2020 00:53

Nguyễn Ái Quốc và ba cuộc đối thoại vĩ đại

Căn cứ vào đâu để chúng tôi đặt vấn đề: Nguyễn Ái Quốc và những đối thoại văn hóa? (PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ)

. PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ

Căn cứ vào đâu để chúng tôi đặt vấn đề: Nguyễn Ái Quốc và những đối thoại văn hóa?

Từ tinh thần các luận điểm trên, đến đây có thể đưa ra một khái niệm về đối thoại văn hóa. Đó là một quá trình giao tiếp giữa các bên tham gia chủ yếu bằng ngôn ngữ, tiếng nói, rộng hơn là bằng cả nhân cách văn hóa (những hành vi ứng xử, thái độ, quan niệm...), trên cơ sở hiểu biết, bình đẳng, tôn trọng, lắng nghe nhau nhằm mục đích thuyết phục, thu phục để cùng thống nhất về những vấn đề các bên cùng quan tâm. Xét về quy mô thì có đối thoại cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, cộng đồng này với cộng đồng khác, thời đại này với thời đại kia...

Thế nên trước nay ngành ngoại giao cử đại diện đối thoại luôn là những người hiểu nhiều, hiểu sâu, hiểu kỹ về đối tượng và những vấn đề đối thoại. Hiểu giản dị nhất thì đối thoại là làm người ta hiểu mình, nghe mình, tin mình, làm theo mình. Vì lẽ này mà chúng ta thấy sau này Bác khuyên cán bộ, thanh niên phải học, học suốt đời, mà Bác là tấm gương tự học sáng nhất. “Nhân bất học bất tri lý”. Có học mới hiểu được mình, hiểu được người, từ đó mới có thể nói tới chuyện thuyết phục người khác nghe theo, làm theo mình. Ở góc độ này, nhiều nhà nghiên cứu nói triết học của Bác là “triết học hành động”, “triết học vô ngôn”, “một tấm gương sống còn hơn cả trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Bác là một cá nhân nhưng suy nghĩ, việc làm của Bác mang tầm thời đại, tầm đất nước, dân tộc. Bác thay mặt những người An Nam bị áp bức đối thoại với chủ nghĩa thực dân để đòi quyền sống cho dân tộc và cho những người bị áp bức trên thế giới. Bác kêu gọi cả nhân loại đau khổ thức tỉnh. Bác kêu gọi cả Quốc tế thứ Ba hành động vì các dân tộc thuộc địa. Vì thế gọi đối thoại của Bác là “đối thoại văn hóa” là đích đáng.

Để hiện thực hóa lý tưởng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, trong khoảng thời gian từ 1917 đến 1940, Nguyễn Ái Quốc đồng thời tiến hành ba cuộc đối thoại với chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến; với đồng bào An nam và nhân dân các nước thuộc địa; với các đồng chí của mình. Mục đích các cuộc đối thoại cũng rất rõ ràng, chính nghĩa, công lý, nhân tính, nói chung là vì con người. Lên án, tố cáo, vạch trần tội ác để dừng, trước hết là giảm thiểu tính chất của tội ác. Thức tỉnh nô lệ để kêu gọi con người ý thức được nhân tính để đòi trả lại nhân tính. Muốn vậy trước hết phải trả lại môi trường có nhân tính. Chia sẻ, động viên, kêu gọi (đồng chí), xét đến cùng là nhận chân kẻ thù chung và cùng cnhau giải phóng con người.

Xét dưới góc độ yếu tố cơ sở đối thoại, cả ba cuộc đối thoại này chúng ta đều thấy một đặc điểm chung ở tác giả là chính phục người đối thoại bằng sự hiểu biết cực kỳ phong phú, đa dạng và cực kỳ chính xác, đúng đắn.

Khẳng định Bác Hồ vĩ đại thì trước hết là khẳng định tình yêu con người lớn lao và trí tuệ tuyệt vời của Người. Để được như vậy, xét về phạm vi hiểu biết, như chúng ta đã thấy, là sự chăm chỉ học hành (nhất là việc đọc sách báo) đến quên mình, sự nhạy cảm chính trị đặc biệt.

Có thể ví cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh như một lâu đài bề thế, lộng lẫy thì cái nền móng vững chãi là tình yêu thương, cái khung kết cấu là trí tuệ. Được trổ nhiều cửa sổ ngoại ngữ để đón nhiều luồng gió nhân văn từ khắp chân trời văn hóa nên lâu đài ấy luôn lộng gió thời đại, luôn chan hòa hương thơm và ánh sáng tinh hoa của cả nhân loại.

Con người Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đáp ứng đầy đủ nhất các yếu tố cơ sở của đối thoại văn hóa để Người trở thành con người của đối thoại văn hóa. Không ngẫu nhiên ngay sau ngày Nước Việt Nam mới ra đời Bác Hồ kiêm nhiệm và hoàn thành cực kỳ tốt đẹp vai trò Bộ trưởng Ngoại giao. Từ đó Người trở thành hiện thân cũng là hình mẫu của ngoại giao văn hóa. Thế giới hôm nay đồng thanh khẳng định Hồ Chí Minh đi trước thời đại, là người đặt nền móng cũng là tấm gương của đối thoại văn hóa với quan điểm “làm bạn với tất cả các nước dân chủ” và không “gây thù chuốc oán” với một ai. “Vĩnh viễn không bao giờ xâm lược nước khác” và cũng “vĩnh viễn không để nước khác xâm lược”. Lịch sử nước ta từ 1975 đến nay càng khẳng định tư tưởng vàng về đối ngoại của Hồ Chí Minh không chỉ là tài sản văn hóa của dân tộc mà còn là tài sản tinh thần của toàn nhân loại. Vì lý do khách quan này nọ mà chúng ta lỡ mất nhịp ngoại giao với nước Mỹ và khối ASEAN ngay sau 1975. Phải mấy chục năm sau chúng ta mới khắc phục được sai lầm...

Ở Hồ Chí Minh khi từ chối đối thoại thực ra cũng là một cách đối thoại, để khẳng định tầm vóc, vai trò của lẽ phải, của công lý, chính nghĩa. Tháng 6/1945 tại lán Nà Lừa, khi nhận được thư hăm dọa của bọn Nhật, Bác Hồ khẳng định với các đồng chí: “Chỉ trả lời bọn Nhật bằng tiếng súng chứ không bằng lời nói”. Người cũng kiên quyết không đối thoại với kẻ xâm lược, kẻ giết người, kẻ không xứng đáng để đối thoại. Thế nên Người khen chiến sỹ Hoàng Đăng Vinh đã giữ tư thế người chiến thắng, trong giờ phút lịch sử không thèm bắt tay tướng Đờ Cát khi hắn định “bắt tay” người bắt sống hắn!

Vì “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” nên quan niệm của Hồ Chí Minh là “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải cố gắng quét sạch nó đi”, là phải quyết tâm đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, dù có phải “đốt cháy cả dãy Trư­ờng Sơn” đi chăng nữa.

Nhìn từ hình thức thể loại chúng ta cũng thấy hầu hết các bài viết của Nguyễn Ái Quốc cũng mang tính chất đối thoại, viết để đối thoại với một đối tượng cụ thể. Khảo sát 450 bài viết trong các năm từ 1919 đến 12/1940, thì:

Thư: 210/450, chiếm 46,6%

Báo cáo, Lời phát biểu: 108/450, chiếm 24%

Lời kêu gọi, Lời kiến nghị, Trả lời phỏng vấn: 86/450, chiếm 16,9%

Còn lại là các dạng bài tuy hình thức có thể là ghi chép, bài báo, truyện ngắn nhưng tính đối thoại vẫn nổi lên rất rõ. Xét đến cùng, xét ở nghĩa phổ quát thì văn chương hay báo chí cũng đều mang tính đối thoại cả nhưng với Nguyễn Ái Quốc thì sự đối thoại khẩn thiết hơn, cấp bách hơn, do vậy cũng cụ thể hơn. Ví dụ, với thực dân Pháp thì Người có khi dùng hình thức Thư ngỏ, như:

Thư ngỏ gửi ông Anbe Xarô, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, báo L’Humanité ngày 25/7/1922.

Thư ngỏ gửi ông Lêông Acsimbô, báo Le Paria số 10 ngày 19/1/1923.

Có trường hợp không nói rõ Thư ngỏ nhưng thực ra cũng là “thư ngỏ” vì được đăng báo, có người nhận (đối thoại) rõ ràng, cụ thể, như Thư gửi ông Utơrây, in trên báo Le Populaire ngày 14/10/1919.

Rõ ràng tác giả mượn hình thức Thư để “đối thoại” với độc giả. Có khi mục đích chính là “đối thoại” với độc giả hơn là với chính người gửi, như trường hợp Thư gửi Khải Định, có lời đề từ trang trọng Kính gửi Hoàng Thượng Khải Định An Nam Hoàng đế, trong khi đó Khải Định không biết tiếng Pháp nhưng “thư” gửi cho ông ta lại in trên báo Pháp Le Journal du Peuple ngày 9/8/1922. Như vậy đối thoại của Nguyễn Ái Quốc rất đa dạng, một bài báo không chỉ dành cho một ai đó đọc mà nhiều người đọc, nhiều thành phần đọc. Điều này được tác giả nói rõ trong một bài bào rất quan trọng có tên Tâm địa thực dân: “...chúng tôi nói với nhân dân Pháp, cũng là nói với cả ông Đơvila” (một bồi bút thức dân - NTT) [1]

Trong quá trình tiếp đường cứu nước, Bác Hồ triệt để dùng vũ khí tiếng nói chống lạ chủ nghĩa thực dân.

Nguyễn Ái Quốc viết bài báo đầu tiên có tên Quyền của các dân tộc thuộc địa đăng trên Báo Nhân Đạo, ngày 18-6-1919. Bài báo cuối cùng Bác Hồ viết là Thư trả lời Tổng thống Mỹ đăng trên Báo Nhân dân ngày 25-8-1969. Cả cuộc đời Bác Hồ viết khoảng hơn 2.000 bài báo, gần 300 bài thơ, hơn 400 trang truyện, ký. Người trực tiếp sáng lập ra 9 tờ báo: Người Cùng khổ (1922); Quốc tế Nông dân (1924); Thanh Niên (1925); Công Nông (1925); Lính Kách mệnh (1925); Thân ái (1928); Đỏ (1929); Việt Nam Độc lập (1941); Cứu Quốc (1942). Với khoảng 150 bút danh, viết bằng nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Hán, Việt...Bác Hồ thực sự coi báo chí là “tiếng nói” làm phương tiện đối thoại với thế giới.

Tiếng nói đối thoại sớm nhất mang tính yêu cầu của Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí với thực dân Pháp được đăng tải trên báo chí Pháp là Yêu sách của nhân dân An Nam được gửi đến Hội nghị Véc-xây năm 1919. Xét trên tinh thần đối thoại văn hóa bản Yêu sách này cực kỳ quan trọng, nó nâng vị thế của “nhân dân An Nam” từ thân phận nô lệ lên địa vị ngang hàng với “mẫu quốc”. Chính vì thế mà có ngay bài báo Giờ phút nghiêm trọng (in trên Courrier Conlonial ngày 27/6/1919) của tác giả Camilơ Đơvila gióng tiếng chuông khẩn cấp về “giờ phút nghiêm trọng” đã điểm: sự thức tỉnh của xứ An Nam thuộc địa. Với thái độ kiêu ngạo bài báo có ngôn từ sặc mùi “thực dân”: “Làm sao một người dân thuộc địa lại có thể dùng bản yêu sách của nhân dân để công kích Chính phủ Pháp. Thật là quá quắt. Cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp chúng ta và sớm trở thành ông chủ của chúng ta. Không được. Phải kìm giữ chúng mãi mãi trong vòng nô lệ” (Tập 1, tr 484). Lúc bấy giờ ông ta chưa hiểu thế nào là “đối thoại văn hóa”, nhưng chỉ với bản yêu sách này thì những người viết đã thực sự “ngang hàng với người Pháp” rồi!

Với nhãn quan đối thoại cực kỳ linh hoạt, Nguyễn Ái Quốc có ngay bài Tâm địa thực dân “đối thoại” với Đơvila, mà như tiêu đề là vạch ra một cách đích đáng nhất “tâm địa thực dân”. Thật không ngờ, bài báo của Đơvila lại là tiền đề để Nguyễn Ái Quốc trình bày quan điểm của mình về chủ nghĩa thực dân một cách công khai.

Nguyễn Ái Quốc có ngay bài viết Tâm địa thực dân tranh luận quyết liệt với ông này: “Cảm tưởng của chúng tôi tóm lại là: một chàng thực dân đã muốn dùng bản Yêu sách của nhân dân An Nam để mở một cuộc tấn công gián tiếp vào chính sách của ông Anbe Xarô, toàn quyền Đông Dương, một cuộc tấn công mà anh ta đã chú ý tô điểm bằng những lời phản đối có tính chất yêu nước, bằng lòng yêu chuộng chân lý, bằng tinh thần hy sinh và tận tuỵ vì lợi ích chung, vân vân, vân vân...

Chúng tôi không dám giải thích cho ông Đơvila rằng, thế nào là một nước cộng hoà, vì môn sư phạm không phải là sở trường của chúng tôi, nhưng vì ông tìm cách bẻ quẹo một câu minh bạch như vậy, nên chúng tôi tự hỏi không biết có phải ông đã có danh dự được làm bồi bếp trong một nhà bếp nhà vua nào đó chăng” [2]. Trả lời một người nhưng cái đích châm biếm thì nhắm vào cả chế độ thực dân Pháp. Giọng điệu châm biếm suồng sã của tác giả thể hiện ở cách gọi tên trêu cợt: “một chàng thực dân”, “anh ta”, “chàng ta”. Nhưng khi quyết liệt để vạch mặt chỉ tên thì lời văn là sự đối thoại căng thẳng giữa người viết và đối tượng đích danh cần phê phán: “chúng tôi tự hỏi không biết có phải ông đã có danh dự được làm bồi bếp trong một nhà bếp nhà vua nào đó chăng”. Một sự mỉa mai đích đáng về tính chất “bồi bút” của ông ta- ông Camilơ Đơvila.

Phân tích sơ lược bài báo trên cũng là cách để chúng tôi góp phần lý giải vì sao Nguyễn Ái Quốc dùng “tiếng nói” làm vũ khí?

Nguyễn Ái Quốc đã triệt tuân theo công thức của Lênin và suốt cuộc đời cách mạng đầy huyền thoại Người luôn làm theo chỉ dẫn ấy để trở thành một trong những người đối thoại văn hóa nổi tiếng nhất thế giới: “Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể”. Ngày nay người ta đều thấy các nhà ngoại giao văn hóa thường trước hết phải làm công tác đối thoại văn hóa bằng phương tiện quan trọng, hiệu quả nhất là báo chí. Thế giới càng thấy Hồ Chí Minh là một hình mẫu tiêu biểu đã đi trước thế giới hàng nửa thế kỉ.

N.T.T


[1] Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, 2000, tập 1, tr 5.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, 2000, tập 1, tr 2,3,4.