Thứ Năm, 18/09/2025 11:00

Những cánh diều màu máu

(NGUYỄN TRỌNG LUÂN)

. NGUYỄN TRỌNG LUÂN
 

Bà bác sĩ ấy về hưu rồi, cùng tổ dân phố lại sinh hoạt hội cựu chiến binh phường với tôi. Mấy đứa con bà công tác và cư ngụ tít trong Nam. Bà bảo, bây giờ ở Hà Nội hai vợ chồng son mà lại ngủ ít ăn cũng ít chả có việc bấn bíu gì nên chỉ mong trời sáng là dậy đi bộ ngoài hồ Hoàng Cầu gặp bè gặp bạn. Mấy ngày nay nắng nóng quá. Các gốc phượng vĩ ngoài hồ chật người ngồi trà đá, râm ran chuyện Trường Sa, chuyện bóng đá rồi lại chuyện nhiều thuốc giả, hàng giả. Chả biết đâu mà lần…

Nhưng chuyện gì thì chuyện, với cánh cựu chiến binh, cuối cùng lại quay về chiến trường xưa.

Bà bảo tôi:

“Anh cũng là lính Mặt trận Tây Nguyên nên tôi mới kể, chuyện thời tuổi trẻ của của tôi. Chuyện thì buồn. Nhưng chuyện buồn đâu phải không nên kể. Có khi kể ra rồi lòng thấy thảnh thơi mà hoá vui hơn”.

Nhìn mái tóc bạc không nhuộm uốn nhẹ ôm gọn khuôn mặt còn vương nhiều nét thanh tú, tôi thầm nghĩ thời ở trong rừng bà xinh phải biết.

Bà kể...

“Tôi vào chiến trường năm 1969, học y tá và được đưa về một đội điều trị thuộc Bệnh viện 211.

Năm 1972, đội chúng tôi đóng trên dãy Chư Mom Ray.

Tháng tư ta thắng to, giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, nhưng tháng 5 thấy chững lại. Lúc ấy bắt đầu vào mùa mưa. Thương binh đưa về cứ kìn kìn. Các đội phẫu trung đoàn sư đoàn ứ người. Thương binh được cáng lên đội điều trị là toàn những ca nặng. Mùa mưa Tây Nguyên ẩm ướt, các vết thương có giòi rất nhanh. Nhiều anh chết trên tay chúng tôi. Nhiều anh chưa kịp đến đội điều trị thì đã chết ngang đường. Cũng có nhiều anh nằm chờ đến lượt được phẫu thì chết…

Bao nhiêu cái chết, chả cái chết nào giống cái nào. Cái chết nào cũng đau đớn. Con gái chân yếu tay mềm chúng tôi chỉ biết khóc, chỉ biết nắm chân tay các anh, muốn truyền hơi ấm yêu thương để thêm chút hi vọng sống. Các anh ấy, có người gần tắt thở rồi mà mắt vẫn mở to nhìn như níu kéo, bàn tay bấu chặt vào tay tôi như muốn chào tạm biệt, muốn nhắn gửi một lời gì đó về quê với mẹ, với người thân mà chẳng thế nói được, chỉ mấp máy môi để nước mắt vón cục lăn ra tí teo.

Tranh minh họa AI

Lúc ấy trên đỉnh Chư Mom Ray hoa pơ lang vẫn còn lốm đốm đỏ. Đội điều trị ở một cánh rừng có mấy cây pơ lang rõ là to, cao vượt lên hẳn những ngọn lồ ô xanh mướt mát. Giống cây pơ lang lá thì ít mà hoa và gai thì nhiều. Dường như nó hút tinh túy cao nguyên chỉ để vắt kiệt máu mình vào những cánh hoa mỡ màng dầy dặn như những cánh diều bé xíu màu máu. Sao loài cây này không sống cho mình, cứ hiến dâng cho thiên nhiên nhiều hơn, cứ mọc ở những vùng núi cao ven sông ven suối. Mùa xuân nó tung những sợi bông trắng bay vào không trung để những hạt gióng lại nở khắp núi khắp rừng.

Đội điều trị có một thương binh ở Sư đoàn 320. Anh quê xứ Đoài, trung đội trưởng DKZ. Anh bị nặng tai vì sức ép đạn nổ gần và vài vết thương nhẹ nên khi bình phục anh nhao xuống chỗ chúng tôi cười hì hì, rằng bố tôi là y tá ở trạm xá quê nhà. Mấy việc đun nước, tiêm chọc tôi biết cả. Anh ấy khuyên chúng tôi nên trồng cây thuốc nam điều trị cho thương binh. Rồi anh trực tiếp mang gùi đi tìm thuốc, nửa buổi là mang về mấy kí sâm cau, thái, sao khô, sắc đặc thành thứ nước tẩm bổ cho thương binh. Thấy vậy, đội điều trị ngỏ ý muốn giữ anh ở lại ít ngày. Anh vui vẻ đồng ý. Ban ngày anh chui vào các lán bón cơm cháo cho đồng đội. Tối tối anh dạy bọn tôi hát. Mà anh ấy hát hay lắm cơ.

Tôi biết anh đã tốt nghiệp cấp 3, không nhận giấy đi học nước ngoài mà nhận giấy nhập ngũ. Đã bốn năm theo đơn vị chiến trận từ Quảng Trị, đường Chín Nam - Lào, đã từng là Dũng sĩ diệt Mĩ từ năm Mậu Thân...

Tôi không thể nhớ hết chúng tôi đã nói chuyện gì với nhau ngày ấy. Tình cảm của chúng tôi cứ dần nẩy nở.

Mỗi buổi chiều, khi xuống lán tiêm, thay băng cho thương binh…, tôi đều thấy anh với dáng vẻ bồn chồn ngóng đợi. Khi tôi xong việc, anh sẽ ngập ngừng đến bên tặng tôi một cái gì đó do anh tự làm. Khi là một cái cối giã gạo làm bằng ống lồ ô xinh xắn, khi là một bức tượng cô gái Tây Nguyên đeo gùi làm bằng gốc nứa rất đẹp…

Một chiều, tôi đến sau lưng mà anh không biết. Anh nhặt ở đâu về rất nhiều bông pơ lang. Anh lấy từng cánh hoa đỏ xếp thành hai cái tên Hà - Hồng trên mặt đất lam nham đàn kiến tha mồi. Anh cười một mình, có vẻ vui lắm, và bỗng giật mình khi thấy có người đến gần. Anh xóa vội nhưng chỉ mất chữ Hà còn lại chữ Hồng. Anh như đứa trẻ biết lỗi. Tôi đứng bên anh im lặng. Anh ngồi bất động. Tôi đặt tay lên mái tóc anh. Anh đưa tay lên giữ chặt bàn tay tôi. Tôi nhớ lúc ấy có tiếng đạn pháo rú qua đầu.

Chả biết làm sao có ai đó biết chuyện tôi và anh nắm tay nhau âu yếm để rồi tôi bị kiểm điểm là tình cảm bi lụy, gây ảnh hưởng cho thương binh. Chiến trường cần những người làm tăng chứ không cần những người làm giảm sức mạnh chiến đấu của bộ đội. Sau mỗi cuộc họp kiểm điểm tôi nhận ra mình tội lỗi bao nhiêu thì lại thấy nhớ anh nhiều hơn, lại muốn yêu hơn. Sau mỗi đêm thức dậy tôi lại mong trên mặt đất có chùm hoa pơ lang thật đỏ rơi từ trên trời xuống cho anh.

Anh trở về đơn vị chiến đấu. Chúng tôi chia tay tận ngoài bờ suối. Anh nói xin lỗi tôi. Anh làm gì có lỗi. Hoa pơ lang thì cứ đỏ. Chúng tôi rất trẻ và chúng tôi khao khát yêu, khao khát thịt da như thèm muốn muôn đời của con người. Con người thì ai cũng như nhau thôi. Chiến tranh biết bao điều vô lí. Vô lí đến thế mà ai cũng thấy nó hợp lí… Khổ thế chứ”.

Bà bác sĩ nghẹn ngào.

Ngừng lúc lâu bà mới nói tiếp được.

“Năm 1974 tôi lại gặp anh, cũng lại vào mùa hoa pơ lang nhưng anh chả nhận ra tôi nữa. Anh bị thương sọ não ở đường 19 đoạn Thánh Giáo gần Pleiku. Sau gần một tháng mổ điều trị anh tỉnh lại. Anh cười ngô nghê. Nào, bắt tay đồng chí. Đồng chí có chồng chưa? Đồng chí có hay về Sơn Tây không? Lúc đầu nghe anh nói tôi cứ ngỡ như anh và tôi đã nhận ra nhau mà giả vờ không quen. Có lúc mắt anh vô hồn nhưng đột nhiên có lúc lại nồng nàn hổn hển. Rồi anh lại à à ờ ờ quê tôi ở gần sông Hồng đồng chí ạ. Đồng chí có biết tiếng Nga không? Dờ-đờ-rát-sờ-vui-che! Chào đồng chí!

Một buổi chiều tôi xuống lán anh. Tôi định nắm tay anh, vuốt tóc anh thật lâu. Tôi không sợ ai đó nhìn thấy nữa.

Thật bất ngờ, tôi lại thấy anh ngồi xé từng cánh hoa pơ lang xếp thành chữ HỒNG ngay ngắn. Thấy tôi, anh cười nhỏn nhoẻn. Chào đồng chí! Đồng chí thấy tôi xếp chữ đẹp không? Tôi xếp chữ Dờ-đờ-rát-sờ-vui-che đấy! Chào đồng chí!

Tôi vụt chạy. Tôi chạy tới gốc cây pơ lang ôm mặt khóc. Khóc như ngày tôi đi tòng quân nhớ mẹ. Thì ra cái bộ não của anh ấy nó tổn thương chỗ nào đó, còn cái chỗ nó lưu lại tên tôi thì mảnh đạn không chạm tới. Hoặc chạm tới mà không xoá được một tên người. Một bông pơ lang rơi ngay dưới chân, tôi nhặt lên giữ chặt trong tay. Tôi giữ mãi... giữ mãi...

Những ngày sau, trong những đêm ngủ chập chờn rách nát bởi bom pháo giặc tôi hay nằm mơ đến một ngôi làng ven sông Hồng. Hình ảnh làng quê có bãi bồi và những cây hoa gạo mơ hồ như sương cứ mập mờ trong hồn tôi.

Thế rồi… bao nhiêu điều mơ hồ trong một cô gái chưa chồng bị chìm đánh ủm một tiếng như quả bưởi trôi trên sông mùa lũ lúc đi lấy chồng. Rồi đến một lúc nào đó nó nổi bềnh lên chói lói giữa mênh mông sóng nước. Nó nổi được lại là nhờ những con sóng ở dưới sâu phải không anh?”

Bà bác sĩ hỏi rồi quay ra nhìn hồ Hoàng Cầu.

Hồi lâu bà kể tiếp:

“Rồi anh ấy được đưa về hậu phương. Buổi sáng hôm ra đi anh nói cười như con trẻ. Trong cóc ba lô của anh có vài bông hoa pơ lang đỏ chói lói lấp ló. Anh ngoái lại cười thật hiền với tôi và những người ở đội điều trị. Dờ-đờ-rát-sơ-vui-che. Chào đồng chí!

Tây Nguyên lùi lại sau anh. Còn tôi từ lúc ấy Tây Nguyên trĩu nặng tháng ngày rất nhiều day dứt .

Cách nay vài năm, khi sắp về hưu, tôi cùng một đoàn cán bộ sở y tế thành phố về chống dịch tại một xã ven sông Hồng sau trận lụt. Lúc này Hà Nội đã có thêm cả tỉnh Hà Tây nữa. Chợt nhận ra cái tên xã rất quen, tôi bàng hoàng rồi nhớ lại những ngày đã xưa lắm rồi.

Tôi mò mẫm vào làng. Bãi sông sau đận lũ vẫn còn ướt át. Đường làng võng nước và phù sa ong óng vàng trên cây trên cỏ trong vườn. Lũ trẻ chăn trâu đang té nước cho phù sa trên liếp cỏ trôi bớt bên cạnh những con trâu đang lè lưỡi đói. Tôi hỏi: Có cháu nào biết nhà bác Hà thương binh không?

Lũ nhóc nhao nhao, có có. Tôi mừng quá, hơi thở dồn dập. Ở đâu hả cháu?

Bọn trẻ chững lại. Bác ơi, ông Hà Hồng ấy chết rồi, chết hơn năm rồi. Thế bác biết ông Hà à? Ông ấy hay lấy hoa gạo ngoài bờ sông về ngồi xếp chữ Hồng rồi khóc, khóc rồi lại cười, ngộ lắm bác ạ.

Tôi như người chết đứng, nghẹn tắc ở cổ rồi bật nức lên.

Bọn trẻ trố mắt nhìn tôi như dò hỏi. Nhưng tôi không thể nói nên lời. Bọn trẻ đâu biết rằng những bông hoa gạo mà người Bắc gọi chính là loài pơ lang của Tây Nguyên. Đầu tôi chập chờn hình ảnh anh gầy gò tật bệnh không vợ con, ngồi trên bãi sông Hồng nhặt từng cánh hoa đỏ lặng lẽ kết tên Hồng”.

Bà bác sĩ quay sang nhìn tôi:

“Anh có nghĩ như tôi không, lúc nào cũng thấy bông hoa pơ lang là ngọn lửa. Còn những cánh hoa pơ lang là những cánh diều màu máu”.

N.T.L