Thứ Năm, 25/07/2019 00:17

Những chuyến tàu trong mê cung sắt

Tôi lên tàu và ngồi vào chỗ trống cuối cùng, bên cửa sổ. Bên ngoài trời có tuyết. Có một thông báo bằng ba ngôn ngữ, không ngôn ngữ nào tôi hiểu.

. Truyện ngắn của Ana Menéndez (sinh năm 1970 tại Los Angeles). Cô là một nhà văn và nhà báo người Mĩ, là tác giả của các tác phẩm: The Last War, Loving Che, In Cuba I Was a German ShepherdAdios, Happy Homeland…

Tôi lên tàu và ngồi vào chỗ trống cuối cùng, bên cạnh cửa sổ. Bên ngoài trời có tuyết. Có một thông báo bằng ba ngôn ngữ, không ngôn ngữ nào tôi hiểu. Người phụ nữ bên cạnh tôi đang ăn một bát đậu đen.

Thấy tôi bối rối, cô ấy quay sang tôi và nói, chuyến tàu này sẽ đi đến bờ biển. Tôi cảm ơn cô ấy. Nhiều người đã lên tàu. Có nhiều tiếng la hét và xô đẩy. Đàn ông buộc phải đứng trong lối đi. Một lúc sau, tàu bắt đầu di chuyển. Những người bị bỏ lại phía sau giơ nắm đấm. Hai người đàn ông mặc áo khoác dài chạy dọc theo tàu đang chạy và chỉ chỉ vào nơi tôi ngồi. Họ đội những chiếc mũ đen giống hệt nhau và trông giống như anh em, ngoại trừ một người có râu và người kia không có tóc. Sau đó tôi hiểu rằng họ sẽ theo tôi bất cứ nơi nào tôi đi, sẽ theo tôi cho đến khi chết.

Ngoài trời, bình minh đã trở lại, mang theo chút ánh sáng. Bầu trời thấp và xám, dù vẫn có ánh đèn mờ nhạt. Tuyết bẩn được chất thành đống dọc theo hai bên đường ray. Tàu di chuyển qua một khung cảnh trống trải của cây cối hoặc nhà cửa. Các cấu trúc duy nhất là các trụ thép khổng lồ được sắp xếp thành hàng lẫn trong khói. Người phụ nữ chỉ vào nơi mà các hàng trụ thép song song gặp nhau và nói, “đó là nơi chúng ta sẽ đến”.

Cô ấy tên là Gertrude. Tôi nhắc lại tên cô ấy. Cô ấy nói chưa bao giờ nhìn thấy tôi trước đây, và tôi khiến cô ấy bối rối. Cô ấy đến từ một thành phố xa xôi phía bắc và cô đã vài ngày trên chuyến tàu đi đến bờ biển với những người khác. “Mọi người ở đây đều là dân di cư”, cô ấy giải thích. "Tất cả chúng ta đều đi đến cùng một nơi", cô ấy nói tiếp. Đoàn tàu lăn bánh ru tôi ngủ. Sau một thời gian, tôi bị đánh thức bởi một thông báo khác, lặp đi lặp lại bằng ba ngôn ngữ lạ. Tôi đã đợi Gertrude dịch nó, nhưng cô ấy không làm thế. Tôi hỏi cô ấy làm thế nào cô và mọi người vượt qua thời gian chán nản trên tàu. “Chỉ biết chờ đợi”, cô nói. “Đôi khi mọi người xem một bộ phim” - cô ấy chỉ vào những màn hình rách nát treo ở phía trước chỗ ngồi hành khách trong tàu. "Chúng luôn luôn giống nhau là ba lần một ngày, trong một thời lượng nhất định". “Xe chở đồ ăn đã sẵn sàng phục vụ”, Gertrude nói với tôi. Nhưng thực đơn trên xe luôn chỉ có một món.

Sau một thời gian, tôi hỏi Gertrude câu hỏi mà tôi e sợ nhất: “Khi nào chúng ta đến nơi?”

Gertrude nhún vai, “Điều đó phụ thuộc vào người trưởng tàu”. “Ai là người trưởng tàu?”, tôi hỏi. “Không ai biết điều đó”, cô ấy trả lời. Trước khi ngủ thiếp đi, cô nói, “Nhiều người trong chúng tôi đã du lịch rất nhiều năm và vẫn không ai biết điều đó”.

Tôi cũng vậy, tôi cũng đã đi du lịch trong nhiều năm. Vào mùa hè năm thứ ba mươi bảy, tôi xuất phát mà không có điểm đến và những mục tiêu. Tôi đã mệt mỏi bởi những sáng tạo và các lời nói dối cần thiết để duy trì chúng. Những gì đã qua đã không còn làm tôi thích thú nữa: những cuộc trò chuyện giả tạo, ánh sáng xanh khi chạng vạng, cảnh vật được tạo nên bởi linh cảm... Tất cả đều dừng lại, và mang ý nghĩa nào đó. Và thế giới tôi tạo ra cho chính mình, mà trước đây đã khiến tôi tràn đầy hi vọng, giờ đã sụp đổ vào không gian trống rỗng. Chính tôi là người sáng tạo ra âm thanh, ánh sáng, màu sắc, tình yêu, sự xấu hổ. Tôi đã làm ra màu đỏ và màu đen. Cái tốt và cái xấu. Sự trừu tượng cũng như việc thể hiện bằng các chi tiết bé nhỏ nhất. Thực sự, giờ tôi mới biết, lời nói dối thông minh và quỷ quyệt nhất từng được kể.

Tệ hơn thế, tôi hiểu, với nỗi kinh hoàng hoàn hảo, rằng tôi cũng sáng tạo ra những người khác. Những người tôi yêu và ghét, những người đàn ông giàu có hào hoa mà tôi từng biết, những người lao động nghèo đều là tôi và do tôi tạo ra. Người phong hủi mà tôi từ chối hạ cửa sổ xuống. Một cậu bé có giấc mơ bay. Người lạ quyến rũ tôi gặp ở Istanbul. Người đầu bếp có một giấc mơ thất bại là chính tôi ở tuổi trưởng thành, tràn đầy nhiệt huyết và những cảm xúc để biết rằng tôi không được yêu thương và hoàn toàn cô đơn. Thế giới này là tất cả những ảo ảnh được duy trì từ mong muốn của tôi.

Những hiểu biết này đến với tôi từ từ, trong nhiều tuần, thậm chí nhiều năm cho đến khi tôi hiểu được nguồn gốc của nó. Anh ấy và tôi đang ở trong sân của một tòa nhà lớn bên bờ sông, chợt có tiếng nhạc piano qua một cửa sổ mở. Chúng tôi trượt qua cổng vào và đi một vòng tròn chậm rãi đến khi nhìn thấy chính xác cái cửa sổ phát ra tiếng nhạc trên tầng bốn. Một bản nhạc ghi âm, anh ấy thì thầm. Nhưng khác với bất kì bản nhạc nào khác anh ấy đã nghe. Liệu có phải bản concerto thứ hai của Chopin, được sáng tác khi nghệ sĩ piano mới hai mươi tuổi? Hay là Rubinstein? Nhưng không, bản nhạc có giai điệu nhẹ nhàng nhưng có sức cuốn hút kì lạ. Đó là một buổi tối mùa hè tràn ngập ánh sáng và những làn gió thơm. Những ngọn cây với tình yêu điên cuồng và vô vọng. Những ngôi sao căng thẳng bên cửa sổ nhìn xuống chúng tôi. Bất chợt, nghệ sĩ dương cầm vấp tay, nhấn một nốt sai, dừng lại. Sự im lặng kéo dài. Người đàn ông quay mặt xuống và lắc đầu. "Chỉ là một người đang chơi đàn", người đàn ông nói. Nhưng tôi im lặng thật nhanh và biến đổi. Lỗ hổng. Sự không hoàn hảo. Sự va vấp và sự im lặng xuất hiện sau đó là điều duy nhất đúng. Tôi đã là một du khách kể từ đó.

Chỉ có cát và cát và cát. Gió mạnh thổi vào buổi chiều, đủ lớn để khiến lũ dê không chết.

Tàu kéo chúng tôi theo hành trình của nó, không chút mệt mỏi. Chúng tôi vượt qua biển này và sang một biển khác. Phong cảnh thay đổi từ rừng già tới sa mạc và ngược lại. Các chi tiết là ngu ngốc và không thực tế. Đừng bị hút vào những lời nói dối của tôi. Chỉ có cát và cát và cát. Nó thổi vào buổi chiều, vào buổi tối, với tiếng hú thảm thiết nhất bạn từng nghe. Nó làm rung chuyển những chiếc toa tàu. Cơn gió đủ mạnh để xua đuổi bầy dê.

Vào ngày thứ ba, Gertrude mang cho tôi đậu đen từ xe ăn uống. Cô ấy nói với tôi cô ấy đã từng sống ở biển. Khi còn trẻ, cô ấy đã chung sống với nhiều người tình và tất cả họ đều chết. Cô ấy có một đứa con với một nhà thơ, người đã bỏ cô trước khi đứa trẻ chào đời. Đứa trẻ cũng chết. Cô ấy cưới một nhà thơ khác, và anh ta chết. Cô ấy lại kết hôn và li hôn không lí do. “Nhìn kìa,” cô ấy nói. “Bộ phim đã bắt đầu”.

Trên màn hình rách nát xuất hiện cảnh tượng quen thuộc: Một khu vực biên giới. Một người đàn ông nhảy qua dây thép gai. Một gia đình đi dã ngoại học được cách trốn chạy từ một thiếu niên bị bắn. Một quả bóng đang được chế tạo. Hình ảnh tấm vải bị mòn lỗ…

“Tôi đã nhìn thấy điều này”, tôi nói.

“Tất nhiên,” Gertrude nói. “Tất cả các câu chuyện đều giống nhau: chúng tôi luôn rời đi”.

Chúng tôi đã xem bộ phim cho đến chi tiết cuối cùng vì không có gì khác để làm. Tôi ăn phần đậu đen của mình và ngủ. Sau một thời gian, thời tiết trở nên ấm áp. Tôi mở cửa sổ phía trên. Chúng tôi đã rời sa mạc và bước vào một vùng đất mới. Tôi nói với Gertrude, tôi có thể ngửi thấy mùi biển. Cô ấy cười. Sau đó, một người đàn ông đi qua các lối đi, xô đẩy vào những người đang đứng. Ở lối vào toa, anh ta dừng lại và ném một nắm đậu đen về phía chúng tôi.

“Với những hạt đậu này, tôi chuộc lại bản thân tôi,” anh ta nói.

“Anh ấy là đầu bếp”, Gertrude nói. “Anh ấy làm điều này mỗi năm một lần dù không ai hiểu tại sao”.

“Chúng ta đi du lịch bao lâu rồi ?”Tôi hỏi Gertrude.

“Tôi không thể có câu trả lời chính xác,” cô ấy nói.

Tôi đã đứng đó và nói với cô ấy rằng tôi sẽ nói chuyện với người trưởng tàu. Cô ấy lại cười nhưng không ngăn tôi. Tôi đi qua lối ra phía trước của toa. Tôi đi vào một cái toa khác giống hệt toa tôi. Một lần nữa tôi đẩy cửa để đi lên. Đàn ông và phụ nữ lấp đầy mọi chỗ ngồi. Phía trước, một cậu bé ngồi khóc bên cạnh mẹ, người ngủ bên cạnh, không động đậy. Tôi đi vào toa tiếp theo, vẫn giống hệt toa trước. Một lần nữa, tôi phải đi qua mọi người trong lối đi.

Tôi hỏi người trưởng tàu ở đâu nhưng dường như không ai hiểu tôi.

Toa tiếp theo toàn những gã trai trẻ, họ đều ngồi một mình, nhìn chằm chằm về phía trước hoặc ra ngoài cửa sổ. Không ai nói một lời nào, dường như tất cả họ đều cô độc. Tôi nhanh chóng rời toa này và đi vào toa khác, và nó lại giống hệt với những toa tôi đã bỏ lại.

"Có bao nhiêu toa trong chuyến tàu này?" Tôi hỏi, nhưng không ai trả lời.

Ở chuyến tàu tiếp theo, bốn người phụ nữ ngồi sát nhau, nói chuyện lặng lẽ. Người lớn tuổi nhất trong số họ ngẩng đầu lên và nhìn thấy tôi. Đột nhiên cô ấy đứng dậy với cuốn sách đang cầm trên tay và bắt đầu hét vào mặt tôi. Những người khác cũng đứng đó bực bội, buộc tội tôi nhưng tôi không thể hiểu được những lời nói đó.

“Đó không phải là tôi,” tôi nói. “Tôi không phải là trưởng tàu.”

Một số người đàn ông trong xe đứng dậy và bắt đầu đi về phía tôi. Những người phụ nữ tiếp tục la hét, chỉ tay và kêu gọi những người khác để thực thi công lí. Tôi đẩy cửa qua lối đi, bỏ lại đám đông phía sau và đến một toa khác. Toa này chất đầy ngựa trắng. Chúng đứng co cụm, bình thản. Khi tôi đi qua, chúng bước sang một bên để tôi vào phòng. Tôi đã mệt mỏi và muốn ngủ ở đó giữa những chú ngựa hiền lành, nhưng tôi biết rằng tôi phải tiến lên phía trước, nơi người dẫn đầu đang chờ đợi cùng với bí mật về đích đến của chúng tôi.

Người đầu bếp dừng lại và ném một nắm đậu đen về phía chúng tôi. “Với những hạt đậu này, tôi chuộc lại bản thân tôi”, anh ta nói.

Tôi trượt cánh cửa vào toa tàu khác, một khoang với mùi hành tỏi. Giữa phòng là một thùng đậu đen lớn sủi bọt, được đảo đều bởi người đầu bếp đang lẩm bẩm với chính mình bằng tiếng Latin. Xung quanh nồi là những người khác đứng đó cầm chiếc bát trong tay, là đàn ông, đàn bà và trẻ con. Vài người trong bọn họ mặc những bộ quần áo hiện đại, phần lớn mặc áo sơ mi và quần thô thường thấy ở nông thôn. Họ dường như đang hét lên, nhưng tôi không thể nghe thấy. Tôi cố gắng để vượt qua họ và sau nhiều giờ cuối cùng đã thành công.

Trong toa tàu tiếp theo tôi chắc chắn sẽ tìm thấy người trưởng tàu. Nhưng thật kì lạ đó vẫn là cái toa trông giống những nơi khác, với những người ngồi trên ghế, những người đàn ông chen chúc ở các lối đi và Gertrude ngồi cạnh một không gian trống, của riêng tôi.

“Bạn có tìm thấy trưởng tàu không?” Cô ấy hỏi tôi với một nụ cười.

Tôi ngồi xuống, kiệt sức. Buổi tối hôm đó có một thông báo khác bằng ba thứ tiếng. Gertrude nói một cách đơn giản, “chúng ta đang hướng đến bờ biển”.

Nhiều ngày đêm chúng tôi di chuyển, không dừng lại vì tuyết hay nắng nóng. Tuyến đường của chúng tôi cắt qua trung tâm của đất nước này, xuyên qua các thành phố bị bỏ hoang, những khu rừng cổ xưa, những khu rừng dương xỉ và hoa hồng. Chuyến tàu của tôi dường như là trạm cuối cùng. Một buổi sáng, chúng tôi đi ngang qua chiếc xe tải chở chở đầy quân lính đang ngủ, hoặc qua khung cảnh vắng bóng người sống, chỉ có mặt đất và bầu trời. Dọc theo con đường là những bụi cây màu nâu được đính những mẩu giấy và nhựa màu. Con tàu rung chuyển từ bên này sang bên kia như một chiếc bè chạy trốn trên biển sâu. Khi trời nóng, mọi người ngủ. Khi trời lạnh, họ lại gần nhau. Đôi khi có một tiếng còi xa thổi tới. Đôi khi khói từ động cơ bị hút ngược qua các cửa sổ, làm sáng tỏ hàng ngàn câu chuyện trên chuyến tàu.

Tất cả những gì chúng ta cố tạo ra, đến một ngày chúng ta sẽ thấy là cần phải phá hủy. Cũng giống như người chồng với cô vợ xinh đẹp ấy. Anh ta sẽ uống rượu. Hoặc anh ta sẽ giả vờ đi công tác. Giống như tất cả chúng ta, anh bắt đầu cuộc sống của mình với hi vọng. Và khi ở lưng chừng, anh ta bắt đầu tháo gỡ tất cả các lớp ngụy trang, từng mảnh một. Vẻ đẹp hoàn mĩ của cuộc sống là thứ anh ta phải chịu đựng quá nhiều. Chúng ta cần từ bỏ những tham vọng của chúng ta. Theo đuổi sự hoàn hảo khiến bản thân mỗi người phủ định lên tất cả những gì họ cố gắng. Tốt hơn hết là đi qua cuộc sống trong đêm tối, không để lại dấu vết, giống như một tên trộm làm điều đó vì niềm vui.

Một ngày nọ, đến tối, tôi thức dậy với tiếng chuông leng keng. Ánh sáng cắt xuyên qua không khí bụi bặm nơi toa tàu của chúng tôi đi qua. Chúng tôi bước vào một đường sắt vô tận. Hai mươi mét từ chuyến tàu của chúng tôi, một chuyến tàu song song khác chạy về cùng một đích. Và đằng sau đó, một chuyến tàu khác ở xa hơn, và đằng sau con tàu đó lại là con tàu khác, cứ thế. . . Chúng tôi đứng và mở các cửa sổ và hành khách trong các chuyến tàu khác cũng làm như vậy. Chúng tôi vẫy tay và họ trả lại sóng. Chúng tôi hét vào sự im lặng vĩnh cửu trong khung cảnh đầy nước đó và chỉ nghe thấy giọng nói của chúng tôi lặp đi lặp lại. Chúng tôi vẫn cách nhiều dặm từ bờ biển và đơn độc. Những người khác là ảo ảnh. Chúng tôi đi qua một vùng gương hoang dã, giật mình trên con đường trở lại sự bắt đầu.

BÌNH NGUYÊN dịch từ nguyên bản tiếng Anh