. NGUYỄN THỊ KIM HÒA
Sẽ như thế nào nếu đồng bằng Phan Rang không có sông?
Thật không dám tưởng tượng cảnh rẻo đất quanh năm như chảo lửa, nơi người trên cả nước hay xuýt xoa gọi “xứ tiểu sa mạc” lại còn không được sông tưới mát. Dù khắp xứ ấy, nhìn tới nhìn lui vẫn chỉ vỏn vẹn một dòng sông dài bằng phân nửa sông Sài Gòn, đoạn chạy qua thành phố cũng chỉ đúng gấp đôi chiều dài sông Vàm Nao - con sông ngắn nhất Việt Nam.
Người quê tôi gọi dòng sông duy nhất ấy bằng cái tên dân duyên hải từ Phan Thiết đến Quảng Nam hay thương mến gọi con sông mẹ quê mình: sông Cái. Để phân biệt với đám bạn sông cùng tên, có người đem tên đất gắn vào thêm, tặng sông một danh xưng nghe rất vùng miền: sông Cái Phan Rang. Người già kể xưa kia sông có nhiều tên gọi hay lắm, nào Mai Lang, Mai Nương rồi Mai Lung... Sách sử chép lại, thời làm ranh giới giữa dinh Thái Khang của nhà Nguyễn và lãnh thổ của người Chiêm, sông mang tên là Phan Rang, sông Phan Rang.
Và dù có bao nhiêu tên gọi đi nữa, dòng chảy ngọt mát ấy với đất quê tôi hệt như báu vật. Ở đây, báu vật do trời thương đất khó, mượn từ sông Tô Hạp miền đồi núi Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa đổ xuống xứ khát một dòng chảy. E chặng đường xuôi về đồng bằng khó khăn, trời còn ưu ái gọi thêm bốn năm dòng chảy nhỏ từ vùng cao Bác Ái, Ninh Sơn cùng đổ vào. Sông Cái thành hình từ đó, hoá chú rồng nhỏ xanh biếc hiền hòa uốn lượn giữa dải đất khô nóng. Càng về trung tâm đồng bằng, chú rồng xanh càng nở nang hơn. Từ bờ nam của hạ lưu, hai dòng nước mảnh như đôi dải lụa tên sông Quao, sông Lu quấn quýt bện lấy rồi cùng chồm ra cửa biển Đông Hải - nơi đầu rồng phình to, vục uống biển Đông. Ở đây, người Phan Rang quen gọi đoạn sông Cái xuống phố rồi hòa vào biển là sông Dinh.

Tôi lớn lên đã thấy mình theo mẹ quẩy thùng ra bãi cát sông Dinh lấy nước. Nước máy chưa kéo về, người trong xóm uống nước, nấu cơm hay tắm giặt đều phải nhờ vào con sông cách bờ đê mỏng. Bãi sông ngày đó vẫn còn rộng, chỉ cần moi một hố nhỏ trên cát, đào xuống chút đỉnh, tức thì nước xuất hiện. Nước ngọt lịm trong vắt bục ra, trào từ những kẽ cát, chẳng mấy chốc tràn trề vòng giếng tạm. Từng đôi thùng cũng theo đó đầy ắp, nước sông sóng sánh theo chân người về khắp từng ngõ xóm.
Ngoại tôi hay nhắc về thời đùm túm gia đình từ làng cát trắng ra bãi sông Dinh. Chiến tranh biến cả ngôi làng dưới chân động cát thành chỗ đêm ngày chỉ nghe đạn réo, súng nổ. Người làng chỉ còn cách bỏ quê, vượt sông ra phố. Bãi đất bồi rậm rịt cây cỏ ven sông thành chỗ trú tạm, rồi thành nhà, thành quê mới của đám người trốn chiến tranh. Người làng cát đem theo chất giọng thô mộc, vừa khô vừa nặng hòa cùng nước sông.
Thế hệ thứ hai của người làng cát ở bãi sông như cậu tôi, lại nhắc về những ngày hè lội dòng nước chỉ ngang bắp chân qua chơi với đám bạn xóm bên kia bờ. Thuở đó đất nước mới thống nhất, đâu đâu cũng khó khăn. Cậu tôi tìm ra phương án tác chiến mới tăng thu nhập, đó là đội thùng kem lãnh ngoài phố “đi đường sông” sang dạo bán một vòng xóm bạn, về phụ thêm ngoại tiền mua vở, viết mực cho năm học mới.
Khác cậu, mẹ tôi lại nhớ ngày sông vào mùa lụt hơn. Sông trưởng thành trên đất hạn, lòng vẫn quen chứa dăm con nước nhỏ nhẻ, hiền khô, bất ngờ phải dang tay đón bọn nước mưa, nước xả thủy điện Đa Nhim ùn ùn kéo xuống từ thượng nguồn. Vòng ôm sông chới với bục tràn, người xóm bờ sông cũng lao đao theo. Trận lụt mẹ nhớ nhất vẫn là vào năm Thìn, cách đây tròn 60 năm. Nước bẻ gãy hẳn một góc đê, thốc nước xuống phố. Xóm nhỏ nằm ngay miệng lụt, mẹ cùng đám trẻ nhỏ được người lớn ẵm hết lên mấy nóc nhà. Cũng từ chỗ trú theo meo giữa biển nước đục ngầu ấy, mẹ gặp ba. Đi hết một vòng lục thập hoa giáp của đời người, mẹ vẫn có thể kể như mới hôm qua thôi ngày gặp ba tôi và cả mặt nước cứ lầm lì dâng lên, chốc chốc lại thở phì bọt trắng như đang giận.
Lúc nhỏ, tôi cũng được gặp con nước giận hờn ấy đôi lần. May mắn hơn mẹ, tôi chỉ thấy chúng quẩn quanh chân cầu hoặc mấp mé dưới con đê mới đắp. Trên mặt đê rộng, phẳng lì bê tông, tôi và đám bạn rủ nhau đạp xe dạo. Mùa lụt, coi nước giận. Mùa hạn, coi người câu cá, bắt ốc, cào hến. Nơi đây, do con nước chà hai (nước lợ) mặn ngọt nuôi ra thứ hến thịt ngọt chắc lại thơm rất đặc trưng, không kém cạnh gì hến sống nơi xóm Cồn trứ danh xứ Huế.
*
* *
Sau đổi mới vài năm, một vùng rẫy nho bắt đầu thắp xanh dần bên kia bờ. Sông theo máy bơm, theo ống dẫn về hồ chứa, rồi tiếp tục theo mương, theo rãnh về hầm nho, giữ cho những mùa trái thi nhau cứ ba tháng lại trĩu giàn. Chị em tôi đi học, ba mẹ mua được nhà đều từ giàn nho chưa tới một sào ăn nhờ nước sông Dinh. Qua thời nho rồi đến táo, rồi thời cừu. Sông nuôi dải đất rẫy ngày thêm dài ra, kéo cái đuôi xanh rượt quét qua xứ biển.
Có phải thế chăng mà mấy năm gần đây biển sợ hãi lấn vào mạnh mẽ. Đập hạ lưu mọc lên neo ngang cửa sông Dinh, làm rào chắn nước mặn. Không hiểu sao mỗi khi nghe một đập ngăn, một công trình trên sông nào đó hoàn thành, tôi lại nghĩ đến con đập chỉ cách đập ngăn mặn kế nhà tôi hơn hai mươi cây số. Lâu đời hơn nhiều ngọn tháp Chăm già cỗi, lớn phải gấp chục lần tuổi ngoại tôi, đó là đập Nha Trinh.
Tương truyền trước khi xây đập vua Po Klong Garai đã cho thả xuống dòng sông Cái một thân cây chuối. Sông dẫn thân chuối đi đến một đoạn uốn khúc, nước lặng thì cho chìm xuống. Không cưỡng lại dòng nước, nương theo ý sông, vua chọn quãng ấy để đắp đập, dâng cột nước lên. Con đập vốn chỉ xếp bằng đá tảng thân bám đầy những rễ cây phun chai vẫn điềm nhiên chắn giữa dòng sông qua gần ngàn năm. Người xưa đã biết chọn cách lắng nghe thiên nhiên. Nên thiên nhiên cũng đãi người, hào phóng chia nước sông cho các dải kênh đào mang về hồi sinh những cánh đồng, những ngôi làng rộc rạc cơn khát nước.
Buồn thay, giờ này không phải chỉ mình lòng sông quê tôi quặn cơn đau bị khoắng ruột, moi cát. Không phải mình dòng nước quê tôi nức nở khóc vạt bờ thình lình sạt xuống, mất tích. So với tuổi sông, con người mãi chỉ là những đứa trẻ. Có lẽ vì vậy, với lầm lỗi của người, sông luôn tha thứ, luôn bao dung. Như lòng mẹ mãi không bao giờ dứt được nỗi thương con. Bao nhiêu đớn đau nữa? Hi sinh bao nhiêu nữa những đứa con mới hiểu được lòng sông?
Sinh ra và lớn lên bên những dòng sông, trong tâm tưởng, kí ức của mỗi đứa con hẳn ai cũng có một góc nhỏ cất giữ ngọt lành như ngoại tôi, cậu tôi, người xóm đê quê tôi. Chỉ mong sao góc nhỏ ấy khơi dòng, chảy thành mạch yêu thương, trân trọng và biết ơn.
Để những đứa con sau chúng tôi không làm sông phải khóc...
N.T.K.H