Thứ Hai, 13/10/2025 09:19

Những người đàn bà đi qua chiến tranh

(Ghi chép của NGUYỄN THỊ VÂN ANH)

. NGUYỄN THỊ VÂN ANH

 

Chúng tôi quen nhau giữa những ngày rực lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Anh tên Hoài Giang, là phóng viên mặt trận. Đến chơi nhà, điều đầu tiên đập vào mắt tôi là bộ sưu tập đủ loại vỏ đạn pháo, bom bi, mảnh máy bay Mĩ bị dân và quân ta bắn hạ, mảnh mìn sát thương được gắp ra từ cơ thể một người bạn chiến đấu…

Tôi có thể ngồi lặng hàng giờ nghe anh kể về những chuyến đi xoay quanh các hiện vật, về những người anh hùng bình dị đã gặp và viết. Nhưng câu chuyện hay nhất chính là về gia đình anh, một gia đình miền Nam tập kết…

*

*          *

Anh Giang chia sẻ với tôi, ba má anh đã có cuộc tình thật đẹp, thật hào hùng khi ba là một trong những lãnh đạo phong trào sinh viên Trường Quốc học Huế, má là cô sinh viên hăng hái luôn xông pha đi đầu trong phong trào sinh viên yêu nước trường Đồng Khánh. Phong trào vừa nhen lên đã bị giặc Pháp đàn áp dã man. Họ bị mật thám Pháp bắt và đày lên Langbiang - Di Linh, một vùng rừng núi hoang vu nghèo đói của đồng bào Chăm, Cơ Ho... Hoàn cảnh mới đầy nghiệt ngã là lửa thử vàng cho tình yêu của họ với đất nước. Cũng chính nơi đây hai người quyết định đến với nhau, dù không có đám cưới tưng bừng với nhẫn cưới và hoa cài trên mái tóc cô dâu, không có những lời chúc phúc rộn rã của bạn bè và quan viên hai họ. Những ngày sau đó, lợi dụng hoàn cảnh bọn giặc không quản thúc chặt hàng ngày như trong nhà lao Thừa Phủ ở Huế, hai vợ chồng bàn nhau tìm cách gây dựng cơ sở cách mạng. Họ làm quen dần rồi bắt rễ với phong trào yêu nước của đồng bào Thượng. Để tạo được vỏ bọc hợp pháp cho hoạt động của mình, họ gợi ý quan Pháp mở lớp dạy chữ quốc ngữ, dạy tiếng Pháp cho đám quan chức địa phương và trẻ con trong vùng. Lớp mở, thầy giáo Lãm và cô giáo Hường vui như mở cờ trong bụng.

Và chỉ ít lâu sau hoạt động Việt Minh chống Pháp nổi lên khắp vùng rừng núi Lâm Viên. Ngày thêm nhiều đồn bốt giặc bị đánh phá. Nhiều bản làng được giải phóng. Đến tháng 8/1945 cả gia đình anh cùng hòa trong dòng người đi cướp chính quyền giải phóng thành phố Đà Lạt. Lúc đó anh mới mười một tuổi nhưng đã hăng hái làm một chú giao liên nhỏ chạy đi chạy về đưa tin tức, tiếp súng đạn từ một sở chỉ huy đóng tại nhà mình đến các mũi tiến công. Anh vẫn nhớ ngày thành phố giải phóng, má anh giương cao lá cờ đỏ sao vàng đứng trên xe Jeep mui trần cùng các chú các bác vào tiếp quản thành phố. Để ổn định tình hình, ngay lập tức Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời và Mặt trận Việt Minh tỉnh Lâm Viên và tỉnh Đồng Nai Thượng được thành lập. Ba anh nhận công tác ở Ủy ban kháng chiến hành chính. Má anh nhận công tác ở Ty Giáo dục. Họ hào hứng xây đắp cuộc sống mới, nơi ước mơ đã thành hiện thực.

Nhưng nền hòa bình mong manh chẳng kéo dài lâu. Ngày 27/1/1946 thực dân Pháp cùng phát xít Nhật đánh chiếm lại hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Từ Hà Nội, qua Huế đến Sài Gòn, thế giặc mạnh như chẻ tre. Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ta rút gần như toàn bộ lực lượng về nông thôn, miền núi lập thế trận mới bao vây bọn giặc đang đóng trong các thành phố. Má anh được phân công nhiệm vụ làm công tác ở Hội phụ nữ Cứu quốc. Nhiệm vụ mới bây giờ là tuyên truyền vận động chị em phụ nữ ủng hộ kháng chiến, nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội; vận động các bà các mẹ tích cực tham gia hội “mẹ chiến sĩ”; phát động phong trào chống bắt xâu bắt lính, hăng hái tăng gia sản xuất... Má đưa cả nhà theo cơ quan về căn cứ kháng chiến trên vùng rừng núi Lâm Viên, tự dựng lều để ở. Rồi ba anh bị những cơn sốt rét rừng quật đổ, để lại cho má một đàn con nheo nhóc sáu đứa, đứa lớn mười hai, đứa út chưa đầy tuổi.

Tác giả bài viết chụp ảnh cùng con trai trước ngày lên mặt trận biên giới tháng 2/1979

Khi này, để có thể yên tâm công tác, má đã chia đàn con gửi vào các gia đình cơ sở, phòng khi giặc bắt sự hi sinh cũng nhẹ bớt đi. Giáp tết năm đầu tiên sau khi ba mất, má lội bộ mấy ngày qua rừng qua núi mới gom đủ đàn con về tụ hội nơi gia đình người con cả - Hoài Giang. Má đưa cho anh mấy đồng bạc lẻ và dặn: “Mai má phải cùng đại diện Hội phụ nữ tỉnh đem quà tết của đồng bào đến thăm và úy lạo bộ đội trên cứ. Sớm nhất là giao thừa má mới về được. Thằng Hai, con cầm tiền này mua đồ về nấu cho các em bữa cỗ tết nghe con”. “Má ơi, vậy tiền này mua gì làm cỗ tết cho các em hở má?” “Thì con cứ ra chợ thấy người ta bán cái gì, mua cái tác với gì, thì mua theo đó”. Anh cất mấy đồng bạc vào túi áo ngực, còn cài ghim băng cẩn thận vì biết đó là tiền sinh hoạt phí rất hạn hẹp của má. Nghe mấy cô cùng công tác với má kể rằng má thật tội, lúc nào cũng căn cơ tằn tiện từng hào từng cắc để lo cho đàn con. Đi công tác xa mấy cũng toàn cuốc bộ, không dám bỏ mấy hào mua vé xe. Ăn uống thì củ khoai củ mì cũng xong bữa, quanh năm chẳng bao giờ để mắt đến hàng quà. Quần áo thì vá hoài, nhưng nhờ bàn tay khéo léo của cô gái Huế nên nhìn má lúc nào cũng tươm tất.

Mãi tới sáng ba mươi tết mấy anh chị em mới mượn rổ của bác chủ nhà kéo nhau ra chợ. Nhưng chợ tết ngày ba mươi làm gì còn thịt cá, chỉ rặt đồ sắp mâm ngũ quả và hương nến thắp bàn thờ. Vậy là mấy anh chị em lễ mễ khiêng rổ chuối xanh và hoa quả về làm tết. Bác chủ nhà thấy thế thương cho con gà, miếng thịt. Má về cả nhà vẫn có mâm cỗ cúng ba...

Đến năm 1954 cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Theo hiệp định Genève đất nước tạm thời chia cắt. Cán bộ kháng chiến miền Nam tập kết ra Bắc chờ hai năm sau tổng tuyển cử thống nhất, xây dựng quê hương. Khi này má đưa các con ra Bắc, nhận nhiệm vụ hiệu trưởng trường miền Nam số 6 Hải Phòng. Nhưng hiệp định kí chưa ráo mực thì đế quốc Mĩ đã nhảy vào thay chân thực dân Pháp. Chính quyền bù nhìn Ngô Đình Diệm được dựng lên, lê máy chém khắp miền Nam đàn áp cách mạng. Tin tức từ những người bà con, bạn bè đưa ra khiến má luôn bồn chồn như ngồi trên đống lửa…

*

*          *

Anh Giang nhớ, cuối năm 1958, trong một lần từ Hải Phòng về căn tập thể nhỏ của gia đình ở Hà Nội, má bảo anh: “Chiều nay con thu xếp thời gian lấy xe đạp chở má đến bệnh viện Việt - Xô thăm một người đồng hương bên quê ngoại. Chị ấy mới từ trong quê ra Bắc. Má muốn hỏi thăm tình hình họ hàng bà con anh em mình trong ấy, chẳng biết ai mất ai còn...”

Tuy đang rất bận với bài vở nhưng anh vẫn thu xếp chở má đi. Đến bệnh viện, hai má con bước vào phòng số 8, khu nhà A1, hỏi thăm tên Trần Thị Lý, lập tức được chỉ dẫn tận tình, với sự kính phục và ngưỡng mộ. Khi này, chị Lý là bệnh nhân nặng nhất trong khoa, tình trạng sức khỏe suy kiệt, luôn lên cơn co giật. Trên mình chị nhiều vết thương vẫn đang tiếp tục rỉ máu, đó là kết quả của những trận tra tấn dã man trong nhà tù Mĩ - ngụy. Gặp, anh nhận ra sự kiên cường đấu tranh của chị Lý, cùng con đường đồng đội đưa chị từ Điện Bàn, Quảng Nam vào Sài Gòn, sang Phnôm Pênh, ra Hà Nội dù có viết bao nhiêu cuốn sách, làm bao nhiêu bộ phim cũng chẳng đủ được…

Ngay trong buổi chiều hai má con anh Giang đến thăm chị Trần Thị Lý, nhà thơ Tố Hữu cũng có mặt. Ông đã khóc khi nhìn thân hình tiều tụy của chị, để rồi bài thơ Người con gái Việt Nam ra đời làm xúc động hàng triệu con tim người yêu hòa bình Việt Nam và thế giới:

Em là ai, cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng...

Vài năm sau, khi tôi và anh Giang đã chính thức về một nhà, có lần anh rủ tôi lên K5 trên Hồ Tây tiễn mấy người bạn lên đường đi B. Đến K5, chúng tôi tình cờ gặp lại chị Trần Thị Lý. Chị đang tiếp tục điều dưỡng và chữa bệnh ở đây. Gặp lại người đồng hương trên đất Bắc, cho dù chỉ là đồng hương bên quê ngoại hai chị em cũng rất vui. Chị kể, ra Bắc chị được cả miền Bắc yêu thương chăm chút như đứa con ruột thịt. Rồi chị được gặp Bác Hồ. Chị xúc động rưng rưng thưa với Bác: “Giờ đây con càng thấu hiểu thế nào là tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Nếu sức khỏe được hồi phục, được nhận nhiệm vụ trở về tiếp tục chiến đấu, con cũng sẽ mãi kiên cường trung dũng như vậy…” Tuy sức khỏe chị vẫn còn yếu dù đã vài lần sang Liên Xô phẫu thuật và điều trị, nhưng ánh mắt lại luôn ánh lên niềm hạnh phúc lấp lánh khó tả. Người mang lại niềm hạnh phúc đó cho chị Lý là anh Nguyễn Viết Tuấn.

Anh Tuấn kể cho chúng tôi nghe, những ngày đầu chống Mĩ anh hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên rồi chuyển về Liên khu 5. Anh quê Đại Lộc, chị bên Điện Bàn. Anh hơn chị hai tuổi, trên đường công tác họ cũng đã biết nhau. Bạn bè cũng đã từng mai mối, nhưng do điều kiện hoạt động trong lòng địch không cho phép chuyện tình cảm cả hai đi xa hơn. Rồi họ bặt tin nhau. Năm 1959 anh ra Bắc, được gửi sang Liên Xô điều trị vết thương rồi trở về học Đại học Bách khoa Hà Nội, khóa 17, Khoa Vô tuyến điện. Tình cờ đến K5 thăm người thân, anh gặp lại chị Lý sau bao năm xa cách. Bên giường bệnh, anh nâng giấc dỗ chị từng thìa cháo miếng cơm. Khi chị đã khỏe hơn, anh mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn. Chị xúc động rưng rưng nước mắt, cứ ngỡ mình đang giữa giấc mơ. Chị gục vào vai anh khóc, rồi lấy hết can đảm nói lời từ chối: “Anh, anh nhìn em giờ đâu còn là cô giao liên nhí nhảnh khỏe khoắn tươi vui mà anh đã gặp ngày nào. Thú thực, em cũng rất yêu anh. Nhưng có một điều chắc chắn rằng nếu chúng ta lấy nhau, em sẽ là gánh nặng anh phải mang suốt cuộc đời. Em sẽ không thể làm tròn bổn phận một người vợ. Em cũng sẽ không thể làm mẹ, không thể sinh cho anh những đứa con, điều mà tất cả chúng ta ai cũng từng mong đợi khi bàn đến chuyện hôn nhân và gia đình...” Anh nghe, nắm chặt bàn tay chị xúc động nói: “Ngày trước anh yêu em, cô giao liên nhỏ dễ thương. Nay tình yêu ấy đã được nhân lên gấp bội bởi thử thách cuộc đời, nó khiến anh không chỉ yêu mà còn thương em hơn, nể phục em nhiều và càng thấy có trách nhiệm với em nhiều hơn…” Hôm Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm, hai người đã thưa chuyện này với ông. Ông vui vẻ hoan nghênh và gợi ý với các đồng chí phục vụ khu nhà nghỉ K5 cho đôi vợ chồng trẻ mượn một chiếc giường đôi, một căn phòng nhỏ ngay kế bên phòng điều trị bệnh của chị để họ xây cái tổ ấm nho nhỏ sau cả chặng đời vượt qua giông bão chiến tranh.

Bước vào cuộc sống gia đình, cả chị và anh đều thấy cồn lên một khao khát cháy bỏng là đứa con. Anh nghĩ nếu có một đứa con thì chị sẽ rất vui. Những đau đớn bởi vết thương chắc sẽ dịu đi. Còn chị, chị cũng nghĩ đứa con sẽ là niềm vui gắn kết gia đình giúp anh vơi đi bao nỗi nhọc nhằn khi phải sống bên người vợ đau ốm. Thế là cả hai đến bệnh viện phụ sản xin một bé gái mới chào đời bị bỏ rơi, đặt tên là Thùy Linh.

Từ khi có bé Thùy Linh, cuộc sống gia đình anh chị thay đổi hẳn. Cả hai rất vui khi được ôm ấp, chăm bẵm một sinh linh bé nhỏ. Nhưng bé cũng là gánh nặng chất thêm trên đôi vai gầy của anh Tuấn. Ban ngày khi anh đi làm, cháu được gửi nhà trẻ. Nhưng tan giờ làm về là anh lại tất bật với bao công việc gia đình, khi mà chị vẫn phải nằm điều trị trên giường bệnh. Con nhỏ cần cháo sữa và người thức thâu đêm chăm lo mỗi khi trái nắng trở trời. Anh gầy gò, tiều tụy hẳn đi khiến chị càng thương anh hơn. Còn anh, tất cả tâm trí sức lực và tình yêu thương, anh đều dành cho vợ con.

Sau ngày đất nước thống nhất, gia đình nhỏ quyết định trở về Đà Nẵng. Trước khi đi, hai anh chị đến chào từ biệt má chồng tôi. Anh Tuấn thủ thỉ: “Con tính về Đà Nẵng tụi con sẽ đi làm giấy đăng kí kết hôn và tổ chức đám cưới đàng hoàng. Sẽ phải có cỗ bàn, lời chúc phúc của quan viên hai họ và đôi nhẫn cưới của cô dâu chú rể”. Má chồng tôi cười gật đầu: “Đúng lẽ thường phải thế. Nhưng trong chiến tranh, đó cũng là một trong những thứ phải hi sinh. Những người đàn bà đi qua chiến tranh chính là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất...”

Trở về Đà Nẵng gia đình anh Tuấn chị Lý sống trong một căn nhà cấp bốn trên đường Hải Phòng. Anh được nhận công tác làm cán bộ giảng dạy Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Bé Thùy Linh đã đi học. Ba người họ sống đạm bạc bằng đồng lương nhà giáo của anh và chút phụ cấp thương binh của chị. Cũng như bao cán bộ khác của cả nước thời ấy, họ phải bươn chải làm thêm đủ nghề mới có thể trang trải cuộc sống.

Chị Lý của tôi mất năm 1992 khi mới 59 tuổi. Mãi tới trước ngày mất ít lâu chị mới được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Sau tôi nghe kể lại hôm đón nhận danh hiệu chị rất vui. Và khi ai đó phàn nàn về sự chậm trễ này, chị chỉ cười và bảo: “Đất nước chiến tranh, cả nước đứng lên chống giặc, hàng bao người bị giặc giam cầm tra tấn dã man đâu phải chỉ có mình tôi. Dọc đường Trường Sơn có hàng triệu chàng trai cô gái đã đội bom phá núi mở đường cho các đoàn quân ào ào tiến vào mặt trận, họ thầm lặng hi sinh chẳng đòi hỏi gì…”

*

*          *

Miền Nam giải phóng, đất nước hòa bình chưa được bao lâu thì biên giới Tây Nam, rồi biên giới phía Bắc lại rền vang tiếng súng.

Hôm ấy, cơ quan tôi chộn rộn khác thường. Biết tin Trung ương Đoàn vừa ra quyết định mỗi tờ báo của Trung ương Đoàn lập một tổ phóng viên lên mặt trận, tôi lập tức viết vội lá đơn xung phong ngay. Được tổng biên tập duyệt đồng ý, tôi phóng vội về nhà sửa soạn sáng hôm sau lên đường. Tôi thưa với má chồng. Bà gật đầu trìu mến nhìn tôi tin tưởng: “Con làm thế là đúng. Giặc đến nhà đàn bà cũng phải xông trận. Mai con cứ yên tâm lên đường. Còn thằng nhỏ và mọi việc ở nhà đã có bà nội với bố nó lo”.

Chồng tôi khi này đã chuyển ngành sang Hãng phim Hoạt hình Việt Nam bước tới chen giữa mẹ và vợ, ngâm nga câu thơ trong bài thơ Tiếng hát sang xuân của nhà thơ Tố Hữu bằng chất giọng Nam bộ trầm ấm: Lớp má trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành...

Rồi anh quay ra lặng lẽ lấy cái ba lô đã bạc màu, kỉ vật thời chống Mĩ của mình, sửa soạn quần áo đồ đạc cho vợ lên biên giới phía Bắc, ân cần căn dặn những điều cần lưu ý của một phóng viên chiến trường, những kinh nghiệm xương máu của anh. Lúc tiễn tôi, anh thủ thỉ: “Em cứ yên tâm. Mọi việc ở nhà đã có mẹ và anh lo”.

Tổ phóng viên của chúng tôi được phân công lên mặt trận Hoàng Liên Sơn. Lên tàu từ ga Hàng Cỏ, tôi để ý đầy ắp các toa đều xanh rờn màu áo lính, với những gương mặt trẻ măng phơi phới. Ngồi cùng toa với tôi là đoàn bác sĩ trẻ lên chi viện cho mặt trận. Tôi bắt chuyện, hỏi ra cô tên Mỵ. Trên đường, cứ thỉnh thoảng Mỵ lại mở quyển sổ nhỏ bìa ni lon trắng trong có gài bức ảnh đen trắng ba người. Thấy lạ, tôi hỏi:

“Ảnh gia đình bạn đấy à?”

“Ừ, tổ ấm bé bỏng của mình đây. Anh Trí chồng mình là cán bộ bên Bộ Ngoại giao. Còn cu Bin nhà mình học lớp một, làm được toán cộng trừ đến mười rồi đấy”.

“Ồ thế thì cũng bằng tuổi thằng con mình. Cháu sinh đúng đợt Mĩ ném bom B52 rải thảm Hà Nội...”

Tôi rút trong ví ra ảnh hai mẹ con mới chụp trước hôm lên đường. Nhìn thấy ánh mắt rưng rưng của Mỵ hồi nãy và giờ đến lượt tôi cũng đang trào dâng cảm xúc nhớ thương, tôi chợt nhận ra một điều là những người mẹ không sợ đạn bom dám lao lên cầm súng cản bước giặc chính bởi sau lưng họ là gia đình và đàn con nhỏ…

Mấy ngày sau, tổ phóng viên chúng tôi bám trụ tại một trạm phẫu thuật tiền phương để có cơ hội gặp trực tiếp các chiến sĩ vừa từ chốt lửa trên các đỉnh cao trở về, tôi đã gặp nhiều bạn gái như Mỵ. Họ là các bác sĩ, y tá, hộ lí và đông đảo các chị dân quân từ các bản làng tham gia đội cáng thương đưa thương binh từ chốt về trạm phẫu... Chính họ, “một nửa thế giới”, cũng đóng góp một nửa chiến công và xương máu để làm nên yên bình của đất nước hôm nay…

N.T.V.A