Thứ Hai, 03/11/2025 11:18

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

. TRẦN THỊ TÚ NGỌC
 

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình. Nhưng càng sống, càng viết, tôi càng tin rằng: công việc của nhà văn không phải là sáng tạo từ khoảng trống, mà là phát hiện và khơi dậy những gì từng hiện hữu. Rất nhiều khi, tác phẩm của tôi được hình thành lúc lắng nghe những người đi ngang qua cuộc đời mình, dù chỉ trong khoảnh khắc.

Đối với tôi, viết về đề tài chiến tranh và người lính là một trải nghiệm giống như thám hiểm vào một vùng cảm xúc nơi bóng tối đan xen với ánh sáng. Có lúc tôi tưởng mình sẽ không thể bước tiếp, vì không chịu nổi áp lực của nỗi đau đớn, mất mát, chia lìa đầy ám ảnh. Nhưng cũng chính từ đó, tôi nhận ra vẻ đẹp âm thầm mà rực rỡ của lẽ sống cao cả, nơi tình yêu, niềm tin và hi vọng vẫn không ngừng âm ỉ cháy giữa tàn tro.

Minh họa: Tào Linh. Đọc Ngụ ngôn tháng tư in lần đầu trên Văn nghệ Quân đội năm 2017.

Ngụ ngôn tháng tư là truyện ngắn đầu tiên của tôi viết về đề tài này. Ý tưởng của truyện được hình thành khi tôi tham gia trại sáng tác của Tạp chí Văn nghệ Quân đội tại An Giang, lần đầu tiên đến với một vùng đất có bề dày trầm tích văn hóa lịch sử, tiếp xúc với những nhân chứng bước ra từ chiến tranh, gặp gỡ trực tiếp nhiều người lính. Câu chuyện được kể theo hành trình biểu tượng của một nhà báo quân đội đi dọc miền Tây để tìm bông súng đỏ. Chuyến đi đưa anh về Châu Đốc, đến Búng Bình Thiên, ngược dòng kí ức từ trận đánh giữa Nguyễn Ánh với Tây Sơn đến những năm kháng chiến chống Mĩ rồi chiến tranh biên giới Tây Nam. Cảm xúc của người lính chồng lớp lên với tình yêu vừa chớm nở đã phải chia li với người con gái mà anh tình cờ gặp gỡ tại Bảo tàng Lịch sử chiến tranh. Cuối cùng, khi cô lên máy bay rời đi, anh xuất hiện với bông súng trên tay. Đó là một ngày tháng tư nắng đỏ với rất nhiều dấu ấn bi thương và hi vọng.

Ngụ ngôn tháng tư có nhiều tuyến nhân vật và câu chuyện đan xen bắt đầu từ những nguyên mẫu tôi tình cờ gặp gỡ trong thời gian ở trại sáng tác. Nhân vật người lính chính là một nhà báo quân đội công tác tại Hà Nội đi cùng chúng tôi trên chuyến xe từ thành phố Hồ Chí Minh đến An Giang. Hành trình trở về với miền đất nơi anh từng sống những tháng năm tuổi trẻ đã khơi dậy trong anh nhiều kỉ niệm, trong đó có mối tình đầu với một cô gái mà vì nhiều trắc trở nên họ không thể đến được với nhau. Anh kể lại câu chuyện ấy như một phần hồi ức không thể nào quên, còn tôi nhận ra rằng, nhiều khi vì đặc thù của nghề nghiệp, người ta buộc phải hi sinh những tình cảm riêng tư của mình. Thứ còn lại, sau tất cả, là một nỗi nuối tiếc âm thầm, lặng lẽ.

Nhân vật Nguyên, cô sinh viên người Mĩ gốc Việt, là một cô gái tôi gặp tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. Một cô gái tóc nâu, mắt nâu, phong cách hiện đại theo kiểu Âu Mĩ nhưng khi đứng trong không gian các phòng trưng bày thì lại tỏa ra một nét gì đó rất Việt Nam. Chúng tôi đã trò chuyện cùng nhau khi đi qua khu vực tưởng niệm các nhà báo hi sinh trên chiến trường. Tại đó, tôi biết cô đang theo học ngành truyền thông và vốn được sinh ra trong một gia đình có cha là sĩ quan chế độ cũ, từng vượt biên sau năm 1975, trong khi vài người thân khác vẫn sống ở thành phố này. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi ấy để lại trong tôi ấn tượng sâu đậm về một thế hệ trẻ sinh ra nơi đất khách, nhưng vẫn khao khát hiểu về cội nguồn, về những điều chưa từng được kể lại một cách trọn vẹn.

Nhân vật ông Tư Ròm được xây dựng từ một người tôi gặp trong chuyến điền dã ở miền Tây. Ông từng là lính dưới chế độ cũ, rồi sau đó tham gia cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, trải qua những năm tháng khốc liệt ở chiến trường K. Khi trở về, ông gần như trắng tay, chỉ còn lại kí ức và sự chênh vênh của một đời người từng cầm súng ở cả hai chiến tuyến. Tôi giữ nguyên tên ông, giữ luôn cả câu chuyện về cô y tá người Bắc mà ông từng thầm yêu. Cô đã hi sinh khi ông chưa kịp ngỏ lời. Giữa dằng dặc những ngày đạn lửa, có lẽ người con gái ấy cũng không bao giờ biết rằng có một người lính đã lặng lẽ dành cho mình một tình cảm sâu nặng đến thế.

Bà lão bán bánh bò ở Châu Đốc cũng từ một nguyên mẫu có thật mà tôi gặp trong một chuyến thực tế khi các nhà văn An Giang dẫn chúng tôi đi về vùng quê. Tôi đã ngồi trong căn nhà lá đơn sơ bên bờ kênh rợp bóng dừa mát rượi, ăn bánh bò thốt nốt do chính tay bà làm, và lắng nghe bà kể lại những câu chuyện đời mình. Bà khiến tôi nghĩ đến những người phụ nữ miền Tây hiền hậu, mộc mạc, gắn bó trọn đời với mảnh đất đầy phù sa, chịu đựng và kiên cường qua nhiều mất mát, vẫn gìn giữ một lòng nhân hậu mênh mông như sông nước quê nhà.

Những con người tôi gặp, những câu chuyện được nghe cứ bám lấy tôi dai dẳng, như một mạch chảy ngầm thúc giục tôi phải viết, phải làm điều gì đó để không phụ lòng tin cậy mà họ đã trao. Nhưng càng nghĩ, tôi càng bối rối. Những nguyên mẫu ấy như những mảnh ghép rời rạc, mỗi người là một câu chuyện riêng, một phần đời, một phần kí ức cá nhân gắn liền với lịch sử dữ dội của mảnh đất này, cũng như lịch sử đầy biến động của cả đất nước trong những năm tháng đau thương và hào hùng. Điều khiến tôi trăn trở hơn cả, là làm sao để kết nối được những mảnh rời đó thành một chỉnh thể, để câu chuyện không chỉ là tập hợp của những kí ức riêng lẻ, mà là một dòng chảy xuyên suốt, vừa riêng tư, vừa mang tính cộng đồng.

Rồi một buổi sáng nọ, khi chúng tôi đến viếng Nghĩa trang liệt sĩ Dốc Bà Đắc, trời bất chợt đổ mưa lớn. Tôi đứng lặng giữa rừng bia mộ, nhìn thấy nước mưa đọng lại dưới những chân nhang loang đỏ, rực lên một màu như máu. Khoảnh khắc ấy khiến tôi rùng mình vì cái màu đỏ quá thật, quá ám ảnh khi sự sống, cái chết, kí ức và thời gian như đang hòa vào nhau dưới cơn mưa. Và chính từ hình ảnh ấy, ý tưởng về một bông súng đỏ - hình ảnh trung tâm trong truyện ngắn Ngụ ngôn tháng tư - đã hiện lên trong đầu tôi một cách rõ ràng, gần như là hiển linh.

Ngay khi tìm được điểm nối cho những nhân vật, tôi đã ngồi viết liền một mạch, không ngắt nghỉ, như thể mọi điều chất chứa trong lòng bấy lâu nay chỉ chờ được tuôn trào lên trang giấy. Không gian miền sông nước dần hiện ra, các nhân vật cũng lần lượt bước ra, gặp gỡ, yêu thương, xa cách, chờ đợi, đau đớn chia lìa. Nỗi mất mát vì chiến tranh, sự day dứt bởi những vết thương chưa kịp lành, và cả những bức tường vô hình còn sót lại sau ngày thống nhất, tất cả đều là cảm xúc rất thật, đã từng được những nguyên mẫu của tôi lặng lẽ thổ lộ.

Điều khiến tôi luôn nhớ mãi, là trại sáng tác năm ấy nằm trong một khu sinh thái ven cánh đồng đang vào mùa nước nổi. Buổi tối, các nhà văn thường mang đàn ra bờ kè đá, ngồi dưới trời đêm mà cất lên những bản tình ca quen thuộc. Giai điệu của Trịnh Công Sơn vang lên từ giọng hát của cả ba miền Bắc, Trung, Nam, cứ thế lặng lẽ thấm vào tâm tưởng tôi một cách nhẹ nhàng như nước ngấm vào đất. Chính vì thế, trong truyện có nhiều đoạn trích ca từ Trịnh. Cả tên truyện Ngụ ngôn tháng tư cũng được gợi cảm hứng từ ca khúc Ngụ ngôn của mùa đông, bài hát mà một người lính yêu nhạc Trịnh đã cất lên trong đêm đầy sao ở An Giang năm ấy: Một ngày mùa đông/ Một người Việt Nam/ Ra bên dòng sông/ Nhớ về cội nguồn/ Từ đó ra đi…

Tôi đã viết Ngụ ngôn tháng tư như một lời nguyện cầu cho hòa bình, hòa hợp dân tộc, cho tình yêu, cho niềm hi vọng. Và hình như có lẽ xuất phát từ cảm xúc rất chân thành, nên câu chuyện đã chạm đến trái tim độc giả. Tác phẩm in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội sau khi trại sáng tác kết thúc và được trao tặng thưởng truyện ngắn hay của tạp chí năm 2017. Đó cũng là tác phẩm đầu tiên đánh dấu việc tôi bén duyên với mảng đề tài về người lính và lực lượng vũ trang.

Sau này, vì công việc, tôi trở lại thành phố Hồ Chí Minh nhiều lần. Hầu như lần nào tôi cũng ghé qua Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. Với tôi, bảo tàng là nơi giữ lại phần hồn sâu nhất của một vùng đất. Khi đặt chân đến một nơi nào đó, nếu bạn thật sự muốn hiểu về lịch sử, văn hóa và con người của nó, hãy đi thăm bảo tàng. Ở đây, không chỉ học được những điều thuộc về quá khứ, tôi còn gặp được nguyên mẫu cho nhiều nhân vật mình từng viết. Sau một lần lặng lẽ bước ra khỏi gian trưng bày chuyên đề “Hồi niệm - bộ sưu tập ảnh về chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam”, vẫn còn chưa hết bàng hoàng bởi những khung hình đen trắng, tôi bắt đầu viết Lặng yên sau cơn mưa - một truyện ngắn ra đời từ mạch cảm xúc không dễ gọi thành lời.

Lặng yên sau cơn mưa kể về những day dứt và nghịch lí ẩn sau mối tình của Lê Phương - một nữ nhà báo trẻ thuộc thế hệ hậu chiến và Duy - con trai của một cựu binh chế độ cũ ở miền Nam, hiện sống ở Mĩ. Họ gặp nhau khi Duy về Việt Nam thực hiện một dự án truyền thông. Tình yêu nảy nở giữa hai con người tưởng như không mang gánh nặng lịch sử, cho đến khi Phương tình cờ xem một cuốn sách ảnh chiến tranh của nhiếp ảnh gia Vũ Thiên. Trong đó, một bức ảnh chụp người lính đứng trước ngôi làng vừa bị thiêu rụi đã chạm vào điều gì đó rất sâu trong cô. Những dữ liệu trùng khớp mở ra khả năng rằng người lính trong ảnh chính là ông nội của Duy, chính ông có thể từng tham gia trận càn năm 1970 khiến gần chục người trong gia đình Phương thiệt mạng.

Phương bàng hoàng. Cô quyết định tìm gặp nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Thiên để hiểu rõ hơn. Ông kể cho cô nghe về trận càn năm ấy khi tham gia với tư cách một phóng viên độc lập hoạt động trên chiến trường, chứng kiến những người lính điên loạn xả súng vào dân thường, nhưng cũng có những người đã lặng lẽ cứu người, ngăn đồng đội khỏi hành vi tàn bạo. Ông đưa cho Phương một chiếc hộp chứa loạt ảnh chưa công bố, để nếu muốn, cô có thể mở ra tìm thêm sự thật.

Nhưng cuối cùng, Phương không mở chiếc hộp ấy. Cô ra về trong một buổi chiều thành phố vừa tạnh mưa. Quá khứ vẫn còn đó, không bao giờ bị lãng quên, nhưng có những phần hồi ức đau thương sẽ dần khép lại để mở ra một trang mới đầy hi vọng.

Tôi viết truyện này sau khi nhìn lại những bức ảnh cũ từng ám ảnh mình nhiều năm ở Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. Đó là những khung hình chiến trường: ngôi làng cháy rụi, xác người nằm co quắp, cánh đồng im lìm như chưa từng có tiếng người, đứa bé gái cụt tay, người đàn bà đứng chết lặng giữa đống gạch vụn. Và ở một góc khuất, người lính trẻ ngồi ôm súng dựa vào bức tường đổ nát, ánh mắt trống rỗng đến nghẹn lòng.

Tôi từng tự hỏi: Sau một cuộc chiến, có thật là chúng ta được sống trong sự lặng yên không? Hay đó chỉ là một thứ im lặng mỏng manh, ẩn chứa nhiều lớp sóng ngầm mà mỗi thế hệ sau đều phải học cách đối diện?

Nguyên mẫu của nhân vật Phương là một nữ phóng viên trẻ tôi từng gặp trong một chuyến công tác. Cô có ánh mắt vừa cương nghị vừa đa cảm, từng kể cho tôi nghe về những bài phỏng vấn mà người đối diện bất ngờ bật khóc. Tôi nghĩ, nhân vật như Phương phải là người như thế, đủ mạnh mẽ để đi tìm sự thật, nhưng cũng đủ nhân hậu để biết đâu là giới hạn cần giữ lại.

Duy - chàng Việt kiều Mĩ - là một nhân vật khiến tôi trăn trở nhiều. Tôi từng trò chuyện với một người bạn, là con của một người lính chế độ cũ vượt biên, sinh ra và lớn lên ở Mĩ. Những người như anh, thuộc thế hệ sau chiến tranh, mang trong mình một hành trình kép: vừa đi tìm nguồn cội, vừa tìm cách hóa giải những vết thương lịch sử vẫn còn nguyên đó.

Còn Vũ Thiên, người phóng viên chiến trường từng trải với kí ức đóng băng trong những khuôn hình, là hình ảnh tôi chắt lọc từ những nhà báo đi qua cuộc chiến. Tôi viết nhân vật ấy với sự kính trọng dành cho những người chọn kể lại sự thật, không bằng ngôn từ, mà bằng ánh nhìn, góc máy và ánh sáng.

Chiến tranh đã qua nhưng những gì nó để lại không dễ nguôi ngoai. Với thế hệ cha ông, đôi khi họ không có quyền lựa chọn. Họ buộc phải đứng ở bên này hay bên kia chiến tuyến, không phải vì thù hận, mà vì lịch sử cuốn họ đi như một dòng chảy dữ dội không cách nào tránh được. Người lính nào cũng có quê hương, gia đình, người thân yêu phía sau lưng, nhưng thời cuộc đã buộc họ cầm súng trong những hoàn cảnh khác nhau. Điều khiến tôi cảm phục ở những người trẻ như Lê Phương và Duy là họ không mang định kiến. Họ đến với quá khứ bằng một tấm lòng cởi mở, với tình yêu dành cho cội nguồn. Tình yêu ấy, sự chân thành ấy đã giúp họ vượt qua rất nhiều rào cản vô hình, giúp họ nối nhịp những điều tưởng chừng không thể nối lại.

Tôi đặt tên truyện là Lặng yên sau cơn mưa bởi tôi tin rằng chiến tranh có thể kết thúc bằng một hiệp định, nhưng dư chấn của nó sẽ còn mãi trong lòng những người ở lại. Truyện ngắn này được in lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, sau đó được dịch và xuất bản tại Hoa Kì trong tuyển tập The Colors of April, dự án sách kỉ niệm 50 năm ngày chiến tranh kết thúc.

Với một người trẻ như tôi, viết về mảng đề tài chiến tranh và người lính là một thử thách rất lớn. Nhưng chính từ những cuộc gặp gỡ trong đời thực, tôi dần nhận ra rằng, điều làm nên chiều sâu cho một tác phẩm văn chương không nằm ở hư cấu thuần túy, mà ở khả năng lắng nghe, thấu cảm và chuyển hóa nguyên mẫu thành nhân vật. Những con người tôi gặp gỡ trong hành trình rong ruổi của mình đã trở thành mạch nguồn để nhân vật hình thành một cách sống động, day dứt và chân thật. Nếu có một điều tôi luôn muốn gìn giữ, thì đó là niềm tin rằng: mỗi nhân vật tôi viết ra, dù hư cấu hay được gợi cảm hứng từ nguyên mẫu, đều sống bằng một kí ức có thật của ai đó. Văn chương là phương cách đẹp đẽ để lưu giữ những kí ức mà mỗi người trải qua trong cuộc đời.

T.T.T.N