Thứ Bảy, 16/03/2019 14:13

Quá vãng vàng son

“Cái quái gì đang diễn ra vậy…” người thợ khóa nhủ thầm. Ông đưa mắt nhìn quanh cửa hiệu tối tăm chật chội của mình. Đây thực sự là nơi mình đã làm việc mỗi ngày trong suốt 30 năm cuộc đời ư? (Truyện ngắn của Heesun Kim, Hàn Quốc)

Heesun Kim

Sinh năm 1972 tại Chuncheon, Heesun Kim tốt nghiệp Cao đẳng Dược, Đại học Quốc gia Kangwon và hoàn thành bằng Thạc sỹ về Văn học Hàn Quốc tại Đại học Dongguk. Cô xuất bản lần đầu vào năm 2011 và giành Giải thưởng Nhà văn Mới được tổ chức bởi tạp chí văn chương Jagga Segye (Thế giới của Nhà văn). Tác phẩm của cô bao gồm tuyển tập truyện ngắn Hoàng đế của Ramen và tiểu thuyết dài Cuốn sách của vô tận.

 

“Cái quái gì đang diễn ra vậy…” người thợ khóa nhủ thầm. Ông đưa mắt nhìn quanh cửa hiệu tối tăm chật chội của mình. Đây thực sự là nơi mình đã làm việc mỗi ngày trong suốt 30 năm cuộc đời ư? Ông lão đứng dậy và kiếm tìm khắp mọi ngõ ngách trong cái cửa hiệu u tối và bí bách. Lần lượt mở từng ngăn kéo một, nơi ông cất giữ vô số thứ linh tinh, những ngón tay của ông lướt qua những chùm chìa khóa mẫu vẫn được ông treo trên những chiếc đinh tường. Đúng như ông dự đoán, tất cả mọi thứ vẫn vẹn nguyên, chẳng có gì xê xích. Tuy nhiên, ông chẳng thể rũ bỏ cảm giác rằng không chỉ cửa hiệu của ông mà cả thế giới này đã khác trước rất nhiều. Nói cách khác, ông cảm thấy như thế toàn bộ thế giới đã biến chuyển 360 độ theo hướng ngược lại (tức là, đã có một hướng ban đầu để bắt đầu) và trở về vị trí xuất phát điểm của nó.

Điều tương tự cũng xảy ra với cậu nhóc con trai ông khi nó vừa mới chỉ chào tạm biệt ông bằng giọng điệu léo nhéo trước khi ùa đi cùng đám bạn. “Cha già, nhớ bảo trọng khi tôi không ở đây. Tôi sẽ mang quà về”, anh ta nói lớn bằng giọng điệu lạnh lùng nhưng lão thợ khóa hiểu rõ rằng từ sâu trong trái tim anh, anh rất lo lắng về việc ông bị bỏ lại một mình trong vài ngày. Khi ông già vẽ những vòng tròn nhỏ lên tấm lịch bàn cạnh đống ổ khóa, khuôn mặt của ông tỏa rạng một nụ cười. Đột nhiên, ông có một cảm xúc rất kỳ lạ. Ông cảm thấy như thể ông đã lặp đi lặp lại những khoảnh khắc tương tự này nhiều lần trong một thời gian dài. Khi nhìn thấy những giọt nước mắt lã chã rơi trên bàn làm việc, ông mới chợt nhận ra mình đang khóc. “Ôi trời ơi, thật ngớ ngẩn làm sao…” Ông vội vàng lau nước mắt, và lắc lắc cái đầu, rồi bật cười khúc khích. Mọi người thường cho rằng tuổi già là quãng thời gian khiến người khác phải lo lắng chỉ vì những điều chẳng có gì to tát. “Tất nhiên là không, nó chẳng có ý nghĩa gì sất”, ông nhủ thầm một lần nữa và lấy ra một miếng băng dính để bọc xung quanh ngón tay cái bên phải của ông. “Tôi đoán sau tất cả tôi là một lão già. Tôi thậm chí chẳng thể nhớ nổi đã bao lần những ngón tay của tôi bị thương”. Ông nhìn chằm chằm vào móng tay bị gẫy của mình rất lâu và bắt đầu đánh bóng một bên chìa khóa trên cái máy sao chìa.

Thật khó để tìm được một cửa hiệu đồ điện tử cũ ở Xa lộ 405. “Hãng điển tử Si Gong”. Tên cửa hiệu chỉ có thể nhìn thấy được trên tấm biển hiệu đã bong tróc sơn. Tôi nhìn chăm chú qua ô cửa kính u ám, và phát hiện thấy một vài chiếc radio cũ, mấy chiếc nồi cơm điện, mấy chiếc quạt, và vài chiếc ti vi hỏng hóc đang được xếp hàng. Chẳng có ai trong cửa hiệu. Tôi cố đẩy cánh cửa nhưng nó chẳng hề nhúc nhích. Đột nhiên, ai đó đặt tay lên vai tôi. Giật mình, tôi quay lại và thấy một người đàn ông lực lưỡng với một bộ râu rậm rạp đứng đằng sau mình.

“Anh đang tìm gì phải không?” anh ta hỏi.

Tôi gật đầu. “Vậy thì, hãy theo tôi”. Khi anh ta mở khóa cửa, gương mặt anh vẫn nhẹ nhàng và bình tĩnh cứ như thể anh đang mong đợi tôi đến vậy. Nhìn từ bên trong, cửa hàng trông to hơn tôi nghĩ. Một vài chiếc máy mà tôi chưa từng thấy trước đây bị vứt la liệt xung quanh, và bàn làm việc chất đầy các dụng cụ khác nhau như thể ai đó vừa làm việc ở đó cách đây một phút. Người lạ kéo một chiếc ghế sắt từ một góc cửa hiệu lộn xộn với đủ mọi thứ vặt vãnh, và miễn cưỡng phủi đám bụi bám đầy trên ghế. Khi tôi lúng túng ngồi xuống, anh ta mở chiếc tủ lạnh ở phía sau cửa hàng, rồi hỏi “Anh có muốn uống gì không?”. Không thèm đợi tôi trả lời, anh ta lựa một chai nước uống dinh dưỡng và mở nó cho tôi. Tôi cố để bày tỏ mục đích của chuyến đi, nhưng anh ta vẫy tay. “Không sao. Tôi biết đến đây làm gì. Anh đang tìm Ông Kim Sang-ok phải không?”. Ngay sau đó, anh ta chỉ vào bìa cuốn sách tôi đang cầm, với tựa đề Hologram Universe: Hướng dẫn thực hành được in rõ ràng bằng các chữ cái màu đen gọn gàng.

Chẳng ai biết ông Kim Sang-ok học vẽ từ khi nào. Thật vậy, hầu hết mọi người đều nói: “Lão ấy chưa bao giờ học vẽ. Cả cuộc đời lão chỉ bận rộn với việc đánh chìa khóa, vậy thì thời gian đâu mà vẽ vời cơ chứ?” Tuy nhiên, một vài người lại cho rằng một bức tranh như thế sẽ không đòi hỏi quá nhiều sự khéo léo về kỹ thuật vẽ. Trên thực tế, bức tranh của Kim Sang-ok có thể được hiểu theo những cách hoàn toàn khác nhau phụ thuộc vào cách mà mọi người trả lời câu hỏi “Nghệ thuật là gì?”. Đôi khi nó xuất hiện như một bức tranh trừu tượng nổi bật được một nghệ sĩ thiên tài vẽ, trong khi từ một số góc nhìn khác, nó trông thật tẻ nhạt và ngây ngô như một bức vẽ nghuệch ngoạc của trẻ con. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là: khi ngắm nó lần đầu tiên, hầu hết mọi người đều có những hồi đáp tương tự nhau. Nói cách khác, họ bộc lộ sự ngỡ ngàng và lặng đi trong giây lát. “Ôi trời!” Những người già làng bao gồm cả thẩm phán đều đồng ý rằng họ nên tham khảo ý kiến của một chuyên gia về bức họa của ông Kim Sang-ok, và bằng cách nào đó họ đã mời một giảng viên nghệ thuật học từ một trường đại học gần đó. Vị giảng viên rời khỏi xe có vẻ miễn cưỡng nhưng sau khi nhìn trực tiếp bức tranh trong tầng hầm, anh ta cũng phản ứng tương tự như những người xem trước đây. Tầng hầm khổng lồ với cốt thép vững chắc của nó tạo ấn tượng rằng nó hẳn sẽ là một nơi nương náu an toàn ngay cả khi Chiến tranh Thế giới thứ III có bùng nổ và mang đến những điều tồi tệ nhất thế gian. Trần nhà, bốn bức tường và mặt sàn của nó được bao phủ bởi những chấm những đường những mép không thể giải mã được. Anh ta đứng một lúc trước bức tranh, không, thực ra là đứng đối diện, giữa bức tranh trước khi anh ta giật mình tỉnh thức và nói, “Thật đáng kinh ngạc. Thật bất khả thi cho một người nghiệp dư để có thể tự sáng tạo ra một thứ gì đó như thế này”.

Cẩn thận phủi sạch lớp bụi và mạng nhện vướng trên vai, người giảng viên trèo lên cầu thang từ tầng hầm, nhưng ngay sau đó anh ta bỗng lao xuống như thể anh ta nhớ ra điều gì đó quan trọng. Anh đi thẳng tới tấm vải đang che phủ toàn bộ tầng hầm, anh đứng gần đến nỗi dường như mũi gần chạm vào tấm vải, và chăm chú ngửi. Rồi anh lắc đầu đầy kinh ngạc và lướt ngón tay dọc theo bề mặt của bức tranh. “Dù cố gắng đến mấy, tôi cũng không thể đoán ra được. Ông ta dùng loại sơn nào? Tôi nghĩ ông ấy phải phối trộn sơn với thứ gì đó đặc biệt…” Trở về xe, vị giảng viên nghiêm túc yêu cầu liên lạc với Kim Sang-ok ngay khi ông ta xuất hiện”. Thực ra, lối vẽ này đang thịnh hành trong thời gian gần đây. Một cái gì khó hiểu, trừu tượng trên một quy mô lớn. Bên cạnh đó chúng ta có thể quảng bá nó như là kiệt tác để đời duy nhất của đời một người thợ khóa già. Chẳng thể tìm được một câu chuyện nào li kì đến vậy!”.

Vị thẩm phán của làng vẫn đứng yên cho đến khi chiếc xe chạy xuống đường và hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt. Rồi anh quay trở lại và lắc cánh cửa nhiều lần để kiểm tra xem cửa hàng đã được khóa cẩn thận chưa. Với vai trò của người đánh chìa khóa, Kim Sang-ok đã sử dụng một chiếc khóa lớn và chắc chắn cho cửa hàng của ông. “Thật là một lão già bẳn tính. Ông ta nên nói với tôi về sở thích mới này của ông ấy. Nhân tiện, ông ấy đã đi đâu vào kì nghỉ? Cho mọi người biết nơi ông ta sẽ đến trước khi cất cánh thì đâu có chết gì, phải không?” Mải suy nghĩ và bận rộn lắc khóa hàng chục lần, anh không nhận ra có một người đàn ông đang nấp đằng sau cột điện thoại gần đó nhìn chằm chằm vào mình. Người lạ mặt không mặc áo khoác, đứng đó với mái tóc rối bời trong bộ quần áo lao động bạc màu, bất chấp cơn gió tháng Hai lạnh lẽo. Anh ta đứng đợi viên thẩm phán của làng rời đi và lặng lẽ bước đến trước cửa hàng. Sau khi chắc mẩm không có ai xung quanh, anh rút thứ gì đó ra khỏi túi và nhìn nó một lúc lâu. Dường như đã quyết định xong, anh đặt tay lên ổ khóa. Khi cảnh cửa mở ra lách cách, người đàn ông đi xuống tầng hầm cứ như thể đã làm việc này nhiều lần trước đó. Anh bật đèn lên để xem bức tranh lớn. “Ối!”. Người đàn ông, sau khi sững lại trước bức tranh một hồi, đổ gục xuống sàn với một tiếng rên lớn, những chiếc bóng xuất hiện phía sau anh ta. Một trong số chúng di chuyển nhanh như chớp và tóm lấy cánh tay của gã đàn ông. Người kia dùng đầu gối đè lên hai cẳng chân của gã. “Đúng như tôi dự đoán! Lũ tội phạm luôn quay trở lại hiện trường tội ác!” Lúc này, hai cánh tay của người lạ mặt đang bị xiết chặt sau lưng, anh ta gào lên trong đau đớn. “Cái gì vậy? Anh là ai? Anh muốn gì ở tôi?” Sau đó người đàn ông đang đè anh bằng đầu gối lột bỏ mặt nạ và hỏi với một giọng nhẹ nhàng, “Điều này có giúp được gì không? Giờ thì anh đã nhận ra tôi chưa?” Cuối cùng, người đàn ông dừng giãy giụa và lẩm bẩm một giọng nói khẽ khọt, “Tại sao, anh… người đưa thư, anh Park”. Nhưng anh ta không thể thốt được lên lời bởi vì họ đã bịt miệng anh bằng băng keo và cột chặt anh vào một chiếc ghế bằng kim loại.

“Chúng ta làm gì bây giờ” tôi hỏi. Vừa cởi găng tay và nhét chúng vào túi sau, Park hét lên, “Còn làm gì nữa? Chúng ta phải bắt hắn thú nhận”.

Khi ông Kim Sang-ok biến mất, tất cả những gì ông để lại là một túi giấy bột có chứa một bản ghi chép và một chiếc khóa gỉ. Bản ghi chép là một kiểu giấy ủy quyền liệt kê những thứ phải hoàn thành theo trật tự thời gian khi ông vắng mặt. Nó thậm chí còn được công chứng, và lạ lùng là, người đưa thư của làng, anh Park, được chỉ định làm đại diện (Vị công chứng viên, người trình bày ngắn gọn trước cảnh sát về sự biến mất của ông Kim Sang-ok rồi cười trừ. “Ông ta nói ông ấy đi nghỉ mát khoảng ba bốn tháng. Ông ta bỏ mặc cửa hiệu của mình một thời gian mà không thể làm khác được vì ông ấy quyết định đi vào phút chót. Hừm, chẳng có gì bất thường ở đây hết. Ông ta trông rất vui mừng… và hạnh phúc”). Lúc đầu, Park kiên quyết từ chối nhận trách nhiệm. “Tất nhiên là tôi không thể chấp nhận nó”. Người đưa thư buông một tiếng thở dài, tỏ vẻ không thể hiểu nổi tại sao ông Kim Sang-ok lại quyết định nhờ mình. “Chúng tôi không đặc biệt thân thiết… Tôi chỉ tình cờ ghé qua cửa hàng của ông ấy mỗi ngày để gửi thư của ông ấy”. Tuy nhiên, bởi vì ông Kim Sang-ok đã đưa ra một yêu cầu khẩn thiết trong bản ghi chép của mình nên anh Park đã nhận lời vào phút chót. “Dù sao thì, tôi đã có một thời gian khá khó khăn để thực hiện mọi việc được đề ra trong danh sách. Người đàn ông đó đã ghi ra mọi tiểu tiết cần làm”. Thực vậy, bản ghi nhớ được soạn thảo một cách tỉ mỉ về mọi chi tiết vận hành cửa hiệu sửa chữa khóa. Số tiền được thanh toán từ một vài cửa hàng mà ông Kim Sang-ok đã hoàn thành công việc trước đó, chúng được xếp chồng lên nhau trong ngắn kéo và buộc lại gọn gàng thành các bọc bằng dây nhựa. “Ông ấy để lại một số tiền chuẩn xác. À, ông ấy luôn luôn là người có óc tính toán”. Người đưa thư tiếp tục đưa ra những ví dụ về sự tính toán chính xác của ông Kim Sang-ok. Sống trong ngôi làng nhỏ, ông Kim Sang-ok cảm thấy khó khăn khi phải đi đến đại lý bưu chính, và vì vậy ông đã yêu cầu anh Park ghé qua bất cứ khi nào ông có một bưu kiện nhỏ hoặc một lá thư để gửi. Hầu hết dân làng đều làm vậy, nhưng ông Kim Sang-ok là người duy nhất mà người đưa thư không phải chuẩn bị tiền lẻ để trả lại. “Ông ấy không bao giờ đưa tôi thừa thiếu dù chỉ một xu. Dù chỉ là một lần”. Sự chuẩn xác của ông Kim Sang-ok đã để lại một ấn tượng tốt đối với người đưa thư. “Hầu hết mọi người thường giữ lại tiền lẻ khi dù chỉ là một vài đồng xu. Tôi không thể nhớ chính xác số tiền mỗi lần vì tôi cứ mặc kệ mọi thứ thôi. Anh có thể tưởng tượng ông Kim đã ảnh hưởng đến tôi như thế nào về việc không bao giờ được cẩu thả với sự tính toán của mình, phải không?” Người đưa thư nói thêm rằng đó là lý do lớn nhất giải thích tại sao ông chấp nhận yêu cầu của ông Kim Sang-ok.

Nhờ bản báo cáo của công chứng viên mà sự biến mất của ông Kim Sang-ok không được xem là một trường hợp nghiêm trọng – lý do là bởi vì tất cả những người đàn ông như ông Kim Sang-ok đều thường xuyên xuất hiện trong làng và sau đó lại biến mất vào một ngày bất kỳ. Họ đột ngột di chuyển đến những miền quê, sống trong những ngôi nhà hoang được sửa chữa tạm bợ, ở đó một thời gian rồi lại lặng lẽ rời đi.

Vì vậy, mặc dù trường hợp của ông Kim Sang-ok khá đặc biệt (các đây vài năm, ông đã mua một cửa hàng nhỏ gần cổng làng, bỏ ra một thời gian dài để cải tạo nó, và mở cửa tự kinh doanh. Địa điểm xây dựng được bao quanh bởi những bức tường cao, và chúng vẫn đứng vững sau khi việc xây dựng hoàn tất). Không có người dân nào quan tâm đến sự biến mất của ông. Nếu ông ấy thực sự có kỳ nghỉ như công chứng viên nói, thì ông ta sẽ trở về đúng thời gian, hoặc nếu ông bỏ tất cả lại đằng sau, thì hẳn ông ta phải có lý do riêng của mình. Cũng chẳng có ai ngạc nhiên khi người đưa thư đến thăm cửa hiệu của ông Kim Sang-ok vào mỗi chủ nhật để xử lý nhiều công việc khác nhau. Chỉ có vài gã đàn ông lớn tuổi trong làng nhìn lén lút vào cửa trong khi đi ngang qua. “Một buổi chiều nọ, trong khi đang nghỉ ngơi bên trong cửa hàng sửa chữa khóa không người”, anh Park sực nhớ đến căn phòng nhỏ phía sau, “lúc đầu, tôi không nghĩ nhiều về nó, chỉ là một chút tò mò thôi.” Với đủ mọi dụng cụ và hộp các tông được chất đống khắp nơi, căn phòng trông thật chật chội và bừa bộn. “Ồ phiền phức quá. Tôi thực sự bị sự gọn gàng ám ảnh”. Như Park nói, anh không có nhiệm vụ phải lau dọn căn phòng đó. Tuy nhiên, như có một ma lực không thể giải thích, anh bắt đầu sắp xếp lại các dụng cụ và các thùng các tông cho ngăn nắp. Khi đã vượt qua cảm giác kỳ lạ này, anh vội vàng lao ra khỏi cửa hàng và sau đó nhìn ngắm kỹ lại cửa hàng. Anh gật đầu: “Tôi là người chú ý đến từng chi tiết vậy nên tôi đã chú ý đến nó ngay từ đầu”. Xem xét toàn thể tòa nhà từ bên ngoài, người đưa thư nhận thấy căn phòng nhỏ kia đang bị thiếu mất một mét chiều rộng. Park quay trở lại bên trong ngôi nhà và cẩn thận kiểm tra từng góc một.

Dựa vào bức tường là chiếc giá sách cũ kĩ thứ khiến cho căn phòng trở nên hẹp hơn so với toàn bộ căn nhà, và trong khoảnh khắc tiếp theo một kí ức nào đó vụt lóe lên trong tâm trí anh ta. “Có một lần trước đây, ông ta đã yêu cầu tôi ghé qua để lấy một chiếc thư được gửi bảo đảm nhưng khi tôi đến, tiệm chẳng có ai hết. Tôi đã gọi cho ông ta vài lần nhưng vô ích. Sau đó tôi mở cửa phòng để tìm ông Kim Sang-ok thì thấy ông đang đẩy chiếc giá sách về phía bức tường. Tôi giúp ông một tay nhưng ông từ chối thẳng thừng và thậm chí trông còn khá bối rối. Sau đó, ông bước ra khỏi phòng, tôi có thể nhìn thấy một lớp mạng nhện dày bám trên vai ông. Ông đưa cho tôi một chiếc phong bì và yêu cầu chuyển phát nhanh. Một tay cầm chiếc phong bì, một tay tôi với ra để gỡ mạng nhện trên vai ông, nhưng tôi thật không ngờ, ông ấy lùi lại một bước đầy hoảng hốt. Dù sao đi nữa, ngày hôm đó, tôi thấy có điều gì đó bất thường về ông Kim Sang-ok. Ông ta dường như có vẻ hơi u ám – mặc dù chưa bao giờ ông ấy thực sự là một người vui vẻ - và cái phong bì mà ông đưa cho tôi thậm chí còn chưa được niêm phong đúng cách. Thành thật mà nói, nếu tôi không đọc lá thư bên trong, có lẽ tôi đã chẳng bị cuốn hút vào công việc kinh doanh kỳ lạ này. Ồ, xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi chắc chắc không phải là loại người lượn lờ vòng quanh để đọc thư người khác. Sự việc này chỉ xảy ra khi tôi quay trở lại đại lý bưu điện ngày hôm đó, tôi nhận ra thư của ông Kim Sang-ok đã được niêm phong cẩn thận. Khoảnh khắc tôi nhặt phong thư để niêm phong nó bằng băng kính tôi, lá thư đã tự rớt xuống. Dù sao, tôi sẽ giải thích chi tiết về điều này sau. Hãy để tôi nói nốt những gì tôi đã nói dở dang từ đầu”. Anh Park hồi tưởng lại ngày hôm đó, và nhẹ nhàng đẩy giá sách sang một bên.

Lần đầu tiên ông làm việc này, chiếc tủ sách sau khi được đẩy qua một bên, để lộ ta một cánh cửa gỗ. “Tôi xoay núm cửa nhưng nó đã bị khóa. Nhưng rồi một cái gì đó đến trong đầu tôi. Ý tôi là chiếc chìa khóa gỉ sét được để lại cùng với thư ủy nhiệm”. Người đưa thư móc vào túi của anh ta rồi tìm chiếc chìa khóa. Khi anh ta đút nó vào trong chiếc lỗ bên dưới tay cầm, chiếc cửa dần dần hé mở như một phép thuật. Ở phía bên kia cánh cửa, bao trùm ô cửa bí mất là một màu tối đen như mực tựa như bên trong một hang động rộng lớn và những luồng gió mát mẻ nhưng ẩm ướt thổi từ tầng hầm. Mười phút đã trôi qua trước khi anh ta rời chỗ của mình ngay lối vào và bắt đầu thận trọng đi xuống. Dựa vào ánh sáng lập lòe từ chiếc bật lửa của anh, anh bước xuống chiếc cầu thang sâu hun hút, cho đến khi đột nhiên anh thấy mình đang ở trong một không gian rộng, kỳ bí. Anh loay hoay tìm công tắc đèn trên tường và bật nó lên. Khoảnh khắc tiếp theo đột ngột thốt ra một tiếng rên sững sờ. “Tôi thực sự hoảng sợ. Có lẽ bởi vì ngọn lửa của chiếc bật lửa cứ đung đưa khiến cho các chấm, các đường kẻ và các mép trên khắp sàn nhà, tường và trần nhà trông như chúng đang di chuyển dữ dội”. Anh vội vã leo lên cầu thang. “Lúc đầu tôi không nói gì về tầng hầm, ông Kim Sang-ok có lẽ đã cố gắng hết sức để không cho ai biết về tầng hầm, phải không? Tuy nhiên, những ngày vừa qua, tôi đã tin rằng tôi nên để ai đó biết về nó”. Cuối cùng, người đàn ông trở lại tầng hầm cùng với thẩm phán, và phần còn lại của câu chuyện đã diễn ra trước đó mà anh không cần thiết phải kể lại.

Nói gấp gá rồi thở hổn hển, anh Park dừng lại bất ngờ và cầm lấy cái cốc bên cạnh anh để uống nước. “Nhân tiện, tại sao anh lại có ý nghĩ vậy? Động cơ của anh là gì?” tôi đã hỏi, cố ngăn lại cơn ngáp đang ập đến. Anh Park ngay lập tức hạ giọng và nhìn quanh. “Ừ… câu chuyện thực sự bắt đầu ngay bây giờ. Xin hãy lắng nghe cẩn thận”. Tôi buông một tiếng thở dài ngao ngán. Tôi đã nhiều lần chú ý về gã đàn ông trung niên đưa thư gàn dở lập dị này. Đôi mắt anh ta có một tia sáng lờ mờ, và có lẽ vì anh ta đã dành cả một thập kỷ để đưa thư vòng quanh một nơi nên anh ta đã bị chứng ảo giác kỳ lạ và bệnh hoang tưởng. Chí ít đó là những gì anh ấy đang thể hiện trước mặt tôi. Anh ta khẳng định lão thợ khóa đã để lại một giấy ủy quyền hợp pháp trước khi đi nghỉ mát, nhưng thực ra lão ấy đã bị sát hại. Không chỉ vậy, anh ta còn tin rằng thi thể của ông già đã bị máy nghiền cỏ nghiền nát và bị cuốn trôi đi qua những ống thoát nước. Vâng, có lẽ tôi là nguyên nhân của tất cả vấn đề. Xét cho cùng, trong quá khứ tôi đã phô trương mình một cách không cần thiết khi kể những câu chuyện dối trá hết lần này đến lần khác. Cách đây vài tháng, tôi gặp anh Park lần đầu tiên. Chuông báo động ở đại lý bưu chính bị hỏng hóc, vì vậy tôi đã lao đến hệ thống chuông, sửa chữa cái chuông đang phát ra những âm thanh inh ỏi, và khởi động lại hệ thống. Khi tôi đứng dậy, một người đưa thư với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt tiến lại chỗ tôi. Anh ta mời tôi uống rượu mặc dù tôi nói rằng tôi không muốn uống và hỏi tôi nhiều câu hỏi về công việc của tôi. Sau đó, anh ta dừng lại trong giấy lát và ném một ánh nhìn ghen tỵ vào thắt lưng của tôi, “Đó có phải là một chiếc khẩu súng hơi không? Anh đã bao giờ phải sử dụng nó chưa?”. Cái nhìn đầy ngưỡng mộ của anh ta quá rõ ràng đến nỗi tôi đã kết thúc câu chuyện bằng cách bịa ra một câu chuyện anh hùng về bản thân mình. “Tôi làm việc cho một công ty bảo mật, anh buộc phải va chạm với đủ hạng người. Anhkhông nghe về tất cả bọn họ trên ti vi hay trên báo chí, nhưng thế giới này đầy rẫy những kẻ xấu xa. Chỉ một ngày kia, tôi đã tay không đánh nốc ao hai tên trộm trong ngôi nhà của một ông lão. Chắc chắn đó là một công việc nguy nhiểm, nhưng vào những lúc thế này, tôi cảm thấy thực sự tự hào về bản thân mình”. Tôi cười thầm đầy tự tin. Thế rồi vài ngày sau đó, anh Park gọi cho tôi và khăng khăng rằng tôi phải gặp ông ấy ngay lập tức. Người đưa thư đến văn phòng tôi sau khi trời tối, anh siết chặt hai bàn tay mình đầy vẻ hối lỗi. “Tôi không thể nghĩ về một ai đó thích hợp hơn cho công việc này. Anh đã nói với tôi trước đó rằng anh đã tay không hạ đo ván tên cướp được trang bị vũ khí. Đó là lý do tại sao tôi phải khẩn thiết yêu cầu anh đi với tôi đến đâu đó”. Tôi không thể thú nhận rằng tôi đã nói rồi về thói anh hùng giả dối của mình. Trên tất cả, tôi đã không có đủ can đảm để đưa người đưa thư trở về sau một cuộc hành trình dài đến vậy. Vì vậy, tôi lúng túng ngồi xuống, nhưng khi thời gian trôi đi, tôi càng ngày càng hối hận. Câu chuyện của anh Park quá phi lý, mâu thuẫn và đầy rẫy những tuyên bố vô căn cứ từ đầu chí cuối. Thỉnh thoảng, anh ta còn đi chệch khỏi câu chuyện hoặc ra ngoài ngắm nhìn lên bầu trời cao, khiến tôi gần như phát điên. Tuy nhiên, tôi nhanh chóng đổi ý và mỉm cười với anh ta một cách hiền từ. Xét cho cùng, anh Park là một trong những khách hàng của chúng tôi. “Ồ, vậy nên câu chuyện mới thực sự bắt đầu ngay bây giờ. Xin vui lòng kể hết cho tôi phần còn lại. Tôi thực sự tò mò, anh thấy đấy”. Từ chỗ đang ngồi, anh Park ngả về phía trước, tất cả đều sẵn dàng để lắng nghe. Bên trong thâm tâm, tôi lại tiếp tục buông một tiếng thở dài sườn sượt, và sau đó tôi co duỗi chân phải đã bị tê từ trước.

Khoảng một tuần sau khi phát hiện ra bức tranh, anh Park đang lê bước tiến về phía trạm xe bus gần cổng làng trên đường đi làm về nhà. Trời đang tối dần sau hoàng hôn nhá nhem, và chỉ có thể nghe thấy âm thanh của tiếng lá rơi xào xạc trong gió. Anh bắt gặp một cái bóng chợt đang vụt qua từ cửa hiệu sửa khóa. “Lúc đầu, tôi nghĩ ông Kim Sang-ok có thể quay lại. Nhưng sau đó tôi nhìn kĩ hơn và nhận ra không phải như vậy. Mặc dù trời khá tối nhưng tôi vẫn có thể nhận biết được đó là tầm vóc của một người đàn ông khác, không phải ông Kim. Vả lại, một ông lão gần 90 tuổi chẳng thể di chuyển nhanh nhẹn đến vậy. “Sau một hồi do dự, anh Park nhớ nhiệm vụ chính của mình như là đại lý của ông Kim Sang-ok và anh quyết định điều tra kĩ hơn dù cho có hoảng sợ thế nào. Anh nhón chân lặng lẽ đến cửa hàng và ngạc nhiên khi thấy cánh cửa mở khóa. Đúng như dự đoán, cánh cửa tầng hầm được mở một nửa, và anh có thể nghe thấy tiếng chân ai đó đang di chuyển xuống tầng hầm. Anh Park nhìn từ trên đỉnh cầu thang và thấy một người đàn ông với mái tóc đen rậm rạp trong bộ quần áo tồi tàn đang bước qua lại. Dường như đang nặng trĩu những lo lắng, người lạ giật bứt tóc tai của y trước bức tranh và thậm chí còn nằm trên sàn nhà và thở dài thườn thượt. Lúc đó, anh Park bị chuột rút ở chân vì ngồi xổm quá lâu. Cơn đau làm cho chân anh co giật, khiến tấm ván gỗ của cầu thang rung lên to hơn. Người đàn ông trong tầng hầm thất thần nhìn lên. “Ai vậy? Ai trên đó thế?” Người lạ mặt đứng yên một lúc trước khi bước chậm rãi về phía cầu thang. Anh Park, dù trái tim đang như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vẫn cố gắng giữ bình tĩnh. “Thậm chí sau đó, tôi có một cảm giác kỳ lạ. Giọng điệu của hắn ta nghe rất quen”. Thực vậy, người đưa thư sau đó nhớ ra người có giọng nói này, nhưng ngay lúc này anh ta lại không thể nhớ ngay ra được. Mục tiêu duy nhất của anh là ẩn nấp ở đây. Anh cúi xuống hết mức có thể và giấu mình trong không gian hẹp đằng sau cánh cửa. Ở dưới cầu thang, người lạ đảo mắt nhìn quanh và tắt đèn. Sau đó anh ta vội vã leo lên cầu thang và biến mất đi đâu đó. Ngay cả sau khi anh ta rời đi, anh Park đã đợi rất lâu trước khi lẻn ra khỏi chỗ trốn. Người đàn ông ấy là ai? Tại sao anh ta có chìa khóa để xuống căn hầm? Theo như người đưa thư cho biết, ông Kim Sang-ok không gia đình không bạn bè thân thiết. Vậy tại sao ông ta lại để công việc kinh doanh này lại cho người đưa thư chỉ bởi vì anh ta ghé qua mỗi ngày? Trong khi đi vòng quanh tầng hầm, anh Park phát hiện ra một mảnh giấy nhỏ hình chữ nhật trên sàn. Tôi nhặt nó lên và nhìn, đó là một tấm danh thiếp. Dĩ nhiên, tôi không nghĩ nhiều về nó lúc đầu. Tôi nhét nó vào túi nghĩ rằng sẽ ném nó đi sau… nhưng tôi phát hiện ra một cái gì đó khác đã cho tôi một ý tưởng mới”. Người đưa thư móc vào túi và lấy ra một túi nhựa được niêm phong chắc chắn. “Chúa ơi, chỉ cầm cái thứ này thôi cũng thấy thật đáng sợ” (Nghĩ lại lúc đó, tay anh run run cầm cái túi nhựa). “Dù sao thì, khi tôi tìm thấy cái này, tôi nhận ra ông Kim Sang-ok đã chết thật rồi. Và tôi đã nhớ ra người đàn ông ở trong tầng hầm”.

“Hừm… cái gì thế? Tôi thực sự không thể nói được”. Anh Park đưa chiếc đèn pin lại gần. “Nhìn thật kỹ. Hóa ra đó là một móng tay người”. Chiếc túi chỉ chứa một miếng nhựa màu đen. Những gì anh Park tiếp tục nói thậm chí còn ngớ ngẩn hơn. Anh ta chắc chắn nó là móng tay cái bên phải của lão thợ khóa đang mất tích. Anh không thể nhầm lẫn vì anh chắc chắn rằng móng tay cái bên phải đó mang những đặc điểm thể chất riêng của ông thợ khóa. “Anh thấy đấy, có một màu đen ở giữa. Đây thực sự là một manh mối. Tôi đã nhận ra móng tay này là của ai. Làm sao tôi có thể quên được tôi đã quan sát rất gần mỗi lần ông Kim đưa cho tôi thư đảm bảo? Có một lần tôi đã hỏi ông về cái mong tay của ông. Nó đã bị kẹp vào cửa hay cái gì. Tôi vẫn còn nhớ lão già đó mỉm cười như thế nào và trả lời tôi rằng ông ấy đã luôn có cái điểm đen trên móng tay. Dù sao đi nữa, khi tôi tìm thấy cái móng tay đó, tôi đã ngay lập tức nhận ra ông Kim đã không thực sự đi nghỉ mát. Hãy suy nghĩ về việc này đi. Chẳng phải lạ lùng sao khi lão thợ khóa lại đột ngột đi nghỉ mát như thế? Phải rồi. Ông ấy đã chết. Ông ấy bị sát hại, và theo cách khủng khiếp nhất có thể có. Lão già đó đã bị nghiền trong một chiếc máy xay và biến thành một cục thịt. Ai là kẻ gây ra chuyện này? Đó là anh ta, dĩ nhiên rồi. Đó là tên họa sĩ người đã đánh cắp bức họa trong tầng hầm. Bọn sát nhân thì luôn quay lại hiện trường tội phạm, phải không? Nó không hề hay biết tôi đã nấp ở một góc trên cầu thang và quan sát nó. Thêm vào đó, mặc dù nó đã thủ tiêu cái xác – bằng chứng về tội ác của hắn nhưng hắn không bao giờ có thể ngờ được một chiếc móng tay đã bị rớt lại trên sàn. Ừ phải rồi, có phải tôi đã nói đến? Chiếc móng tay đó giúp tôi hiểu được tầm quan trọng của danh thiếp mà tôi đã nhặt chỉ vài phút trước đó. Danh thiếp có ghi tên và số của một công ty cho thuê máy xay thức ăn. Rồi tôi nhận ra giọng nói của người mà tôi đã nghe ở tầng hầm. Tất nhiên rồi! Giọng nói đó là của tên họa sĩ sát nhân. Thật ngược đời hết sức khi mọi người lầm tưởng anh ta như một thiên tài thất bại nhưng tôi biết hắn rõ hơn hết. Hắn là một kẻ tâm thần điên loạn sống trong một ngôi nhà hoang vắng, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc vẽ bìa quảng cáo điện ảnh. Anh có thể đoán kiểu bưu kiện mà hắn ta bắt đầu nhận thường xuyên không? Những xác chết của động vật! Một số xác chết thậm chí còn không được đóng gói cẩn thận, vì vậy máu đen rỉ ra ngoài và đôi khi thậm chí còn bốc lên một thứ mùi hăng nồng khiến tôi phát ói. Một ngày nọ, tôi đã hỏi hắn ta về tất cả những xác chết động vật đó là để làm gì. Hắn ta trả lời tôi dứt khoát rằng hắn là một nghệ sĩ tiên phong. Theo hắn, thịt và máu động vật chứa đựng bản chất của cuộc sống thứ mà hắn đang cố gắng để truyền tải bằng cách trộn xác chết động vật với sơn”.

***

Park ôm lấy ngực trái, thở hổn hển. Tôi đưa cho anh ly nước bên cạnh mình. Anh nhấp một ngụm rồi duỗi người nghỉ để lấy lại hơi. Rồi anh gãi đầu gãi tai như thể đang xấu hổ. “Tôi… thật lòng xin lỗi. Tôi hơi bị phấn khích quá đà. Chỉ là đột nhiên tôi nhớ lại mình đã hoảng hồn như thế nào sau khi trông thấy mớ máu mê nhầy nhụa đó và kinh hãi tới mất kiểm soát… Dẫu thế nào, cho phép tôi được nhấn mạnh rằng ông Kim Sang-ok đã bị giết rồi. Tên khốn khiếp ấy có lẽ đã không còn chỉ bằng lòng với những xác chết động vật. Hắn đã điên loạn hơn, và nhắm tới việc đưa xác người vào những bức vẽ của mình. Tấm danh thiếp của công ti máy xay thịt mà tôi tìm thấy trên sàn là bằng chứng. Có lẽ anh chưa biết, nhưng chẳng có thứ gì là cái máy ấy không xay thành cám được. Mới gần đây, tôi đã tận mắt chứng kiến một người già trong làng quẳng một con chó phải nặng tới hơn bốn chục kí vào máy xay để làm thức ăn cho gà.) Anh thì nghĩ sao? Anh vẫn không tin tôi ư?”.

Lần túi áo khoác, người đưa thư lôi ra được một mảnh giấy gấp tư nhàu nát. “Đây là bằng chứng cuối cùng. Chắc hẳn anh vẫn còn nhớ chứ? Chuyện về cái ngày tôi kiếm ra được bức thư của ngài Kim Sang-ok và đã đọc toàn bộ nội dung vì nó chưa kịp được niêm phong bảo mật gì cho cam. Giờ thì có gì phải ngạc nhiên đâu. Bức thư đã được gửi tới cho tên họa sĩ. Như tôi nói rồi đấy, nếu như trước đó tôi không trông thấy lá thư, tôi đã chẳng nghi ngờ hắn ta nhiều đến thế. Nhìn bề ngoài, hai người đàn ông này dường như chẳng có điểm chung hay sự kết nối nào. Tôi đã đọc lá thư và nội dung bất thường của nó làm tôi nhớ như in. Thật thế, tôi ước gì lúc đó mình đã photo lại một bản hay tìm cách nào đó sao chép lại, bản này tôi chỉ có thể ghi lại theo trí nhớ của mình.” Mẩu giấy anh chuyển cho tôi ghi vắn tắt vài ý ngắn gọn:

“Cảm ơn rất nhiều vì đã đáp ứng yêu cầu của tôi. Không có sự trợ giúp của anh, tôi đã không thể nào thỏa được niềm ước nguyện suốt đời mình. Với lòng phấn khởi, tôi đã vào trung tâm thành phố cuối tuần rồi. Tôi đã mua cả sơn, vải và cọ vẽ rồi lái xe về nhà. Tôi cất chúng gọn ghẽ dưới tầng hầm. Nhớ ghé cửa hiệu của tôi theo lịch đã thỏa thuận nhé. Tôi sẽ để ngỏ cửa sau, vậy xin hãy gắng kín đáo nhất có thể.

Thật lòng biết ơn. Kim Sang-ok.

P/s: À, thêm nữa là tôi đã đặt máy cho anh rồi, nó sẽ được chuyển tới đúng vào khoảng thời gian anh ghé qua. Đúng theo mô hình anh muốn đặt trước đó. Những người làm thuê ở công ti tự tin đảm bảo rằng với cái máy này, anh có thể xay nát cả những thứ khá lớn”.

Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai lần rồi mới đưa lại cho người đưa thư. Chắc chắn có gì dị thường ở đây. Nhưng chỉ nhiêu đó thôi thì không đủ để buộc tội một họa sĩ sống ẩn dật trong một ngôi nhà bỏ hoang là một tên giết người điên loạn. “Bức thư khá kì quái. Nhưng biết đâu đó chính là lí do ông Kim Sang-ok mời tên họa sĩ tới chỗ của mình, có thể lắm chứ. Thử nghĩ mà xem. Với những bức vẽ xếp dưới tầng hầm, tôi chắc chắn ông Kim Sang-ok đang theo học lớp mĩ thuật. Dù vậy, rõ ràng, một chuyên gia thuộc lĩnh vực này đã khẳng định một người vẽ amateur như ông không thể nào cho ra đời được những tác phẩm như vậy. Rất có thể ông Kim Sang-ok muốn chiếm lấy toàn bộ những bức vẽ ấy thành của riêng mình – tôi thấy trên báo người ta viết rằng thời này rất nhiều họa sĩ vẽ dưới tên kẻ khác – và lẻn vào nơi tên họa sĩ sống bằng cửa sau?” Park gật đầu, “Tất nhiên, có thể anh đúng về lí do ông Kim Sang-ok mời tên họa sĩ tới chỗ mình. Nhưng không biết vì lí do gì, một cuộc cãi vã đã nổ ra giữa hai người đó, và tên họa sĩ giết ông ta trong cơn giận dữ. Hoặc (thực ra tôi thấy giả thuyết say này có vẻ thuyết phục hơn), rất có thể tên khốn này trước đó đã lên kế hoạch dùng chính ông Kim Sang-ok đưa vào tác phẩm của y, nên đã tìm cách tiếp cận ông. Hắn đã dẻo mỏ mời mọc ông già đăng kí các lớp học hội họa, rồi giả dối nhờ ông kiếm cho hắn một chiếc máy xay. Cuối cùng hắn giết luôn lão già tội nghiệp rồi biến ông ta thành sơn màu”.

Chính lúc ấy đầu tôi bắt đầu đau như búa bổ. Tôi đoan chắc những lời người đưa thư nói chỉ là mấy chuyện tầm phào vô nghĩa. Nhưng ánh nhìn nghiêm túc trong mắt anh ta khiến tôi không thể cứ thế mà gạt phăng đi, kiểu như: “Anh bị loạn trí mất rồi! Anh nên vào bệnh viện tâm thần mà khám ngay đi!” Khi tôi hỏi anh ta tại sao lại đến đây thay vì đi trình báo cảnh sát, anh lập tức đáp lại: “Liệu họ có tin tôi không? Khi mà bằng chứng duy nhất tôi có chỉ là một cái móng tay tôi bắt được trong tầng hầm, cùng linh cảm của mình?” Tôi hít một hơi dài rồi hỏi thêm một câu chốt hạ: “Thôi được, vậy anh muốn gì từ tôi đây?” Chỉ đợi tới đó, Park reo lên run rẩy: “Chiều mai, xin hãy cùng tôi tới cửa hàng sửa khóa. Chúng ta sẽ đợi ở đó cho tới khi tên họa sĩ lộ bản chất thật là bắt y phải thú nhận tội lỗi của mình!”

***

Không nói một lời, họa sĩ im lặng lắng nghe câu chuyện của chúng tôi. Bị trói chặt trên chiếc ghế kim loại, anh ta hổn hển gần như nghẹt thở. Trông anh ta thảm hại tới nỗi chúng tôi phải nới bớt dây trói cho đỡ chặt, dỡ bớt cả mấy vòng băng keo màu xanh chúng tôi đã quấn chặt phòng khi anh ta vùng thoát. Chăm chú lắng nghe, đôi lúc lại ngước mắt lên nhìn vô định, cuối cùng người họa sĩ chậm rãi trình bày: “Suy luận của anh gần như chuẩn xác rồi đấy. Nói cho chi tiết thì tôi phải thừa nhận là chính xác tới 80%. Vâng, đúng là như thế. Tôi… Tôi đã cho lão già đó vào máy xay. Dù thân thể lão ta già nua và nhỏ thó, tôi vẫn thấy cái nhiệm vụ này thật khó nhằn vô cùng. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi phải xử lí một thi thể kiểu đó. Tôi thấy buồn mửa và không phút giây nào ngưng tự hỏi, liệu mình có đang làm một việc đúng đắn hay không. Dẫu vậy, hết lần này tới lần khác, tôi nghiến răng cố kìm mối hoài nghi dữ dội trong mình, từ từ đẩy lão già tội nghiệp vào máy nghiền, trước tiên là cái đầu, theo đúng nguyện vọng của lão mà tôi đã hứa danh dự là sẽ tuân thủ. Thật thế, ước nguyện trước lúc lìa đời của người đã khuất bao giờ cũng đáng được coi trọng” (‘Người đã khuất ư? Anh đang muốn chơi trò gì vậy? Chính anh là kẻ đã giết Kim Sang-ok, không phải ư?’ Người đưa thư hét lên hỏi, gần như mất bình tĩnh. Nhưng họa sĩ vẫn bình thản thầm thì, ‘Nếu các người muốn biết toàn bộ sự thật về cái chết của lão già, trước hết hãy nghe tôi nói. Tôi xin các người!’). Sau đó, tôi gom lại tất cả những mẩu thân thể nát vụn rồi trộn chũng với một loại sơn đặc biệt (Tôi làm thành thạo không thừa không thiếu một mẩu nhỏ… Riêng về vụ ngón tay cái bị sót lại, tôi chỉ có thể lấy làm tiếc cho ông Kim Sang-ok. Theo như tôi biết, ông ta chắc chắn đã phải chịu đau đớn khủng khiếp vì cái móng đó). Nào, gượm đã! Đừng nhìn tôi như thế! Ông Kim Sang-ok đã tự lấy mạng mình. Đó là sự thật. Tôi không giết lão già. Lão đã tự trù liệu mọi việc trước khi lão chết. Bất chấp sự từ chối cương quyết của tôi, hầu như hôm nào lão cũng tìm gặp tôi để van nài xin giúp lão hoàn thành cái ước nguyện tuyệt vọng ấy. Lão cầu xin tôi hãy dùng chính thân thể lão để vẽ một bức tranh. Đúng như người phỏng đoán, bức tranh dưới tầng hầm là của tôi. Suốt một tuần, ăn không ra ăn ngủ không ra ngủ, tôi bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi, trầm cảm, hoảng sợ và những cơn ác mộng. Mọi nỗ lực của tôi chỉ để hoàn thành bức vẽ, để giữ lời với đã chết. Đương nhiên, bản phác thảo là của ông Kim Sang-ok. Lão đưa cho tôi một mẩu giấy đầy những điểm chấm, đường kẻ và góc cạnh lộn xộn chồng chéo lên nhau – lão già gọi đó là “bản thiết kế chi tiết” – và cầu xin tôi hãy tạo ra một bức tranh như thé sau khi lão chết. Các người đang thấy điều này khó tin lắm hả? Chính tôi cũng thế. Tôi phải luôn tự nhắc mình không được khủng hoảng tới mất trí để hoàn thành cho được yêu cầu của ông ta, không biết bao nhiêu lần tôi đã bước chân xuống căn hầm ấy, vờ như không nghe thấy tiếng trống ngực đập thình thình và cố quên đi cảm giác tội lỗi, hối tiếc.” Họa sĩ đột ngột dừng lại và cho tay vào túi áo khoác lục lọi. “Ôi đây rồi. Ông Kim Sang-ok còn để lại cho tôi bản xác nhận bằng tay này phòng khi cần. Nhìn cho rõ nhé. Nó được xác nhận bằng dấu vân tay của ông ấy.” Thậm chí còn ghi lại lời ông già để chuẩn bị cho mọi tình huống, họa sĩ móc từ túi sau ra cái thẻ nhớ USB. Thấy tôi và người đưa thư nhìn, anh ta mỉm cười buồn bã.

“Khi bức tranh được tìm thấy và mọi người cho rằng đó là tác phẩm của ông Kim Sang-ok, tôi thầm hi vọng mọi thứ sẽ được giấu kín sau lớp màn… Tôi nghĩ sau tất cả, mình vẫn là người vô tội. Nhưng các người biết không? Còn một kẻ khác đứng sau tất cả những sự việc này. Lẽ ra các anh nên tìm tới anh ta đầu tiên, thay vì tôi. Nếu như anh ta không đứng ta bảo đảm, tôi đã không bao giờ nhận lời với lão già. Vậy sao hai người không đến tìm hắn đi đã chứ? Vẫn chưa muộn để các anh đưa ra kết luận cuối cùng về vụ này cơ mà. Nếu nghe được thêm câu chuyện của anh ta, các người sẽ hiểu vì sao ông Kim Sang-ok lại có một lựa chọn khốc liệt như vậy… Và nó sẽ giúp các anh quyết định xem nên đưa tôi ra cảnh sát hay nên lờ đi tất cả những gì các anh đã phát hiện ra hôm nay.” Khi họa sĩ chốt lại lời kể của mình rồi nhắm mắt, tựa lưng vào ghế, tôi rơi vào sự bối rối cực độ. Tôi cảm thấy mình dường như vừa chui ra khỏi chảo dầu chỉ để tiếp tục lao vào ngọn lửa. Mới đây, khi giúp Park trói chặt người họa sĩ vào ghế, tôi đã đinh ninh rằng mọi thứ sẽ sớm được giải quyết ngay sau đó. Nhưng với cái cách mọi tình tiết cứ đua nhau xuất hiện thêm thế này, đầu óc tôi gần như không thể bao quát nổi sự việc nữa. Họa sĩ, người tôi từng hi vọng sẽ tỏ ra ngây thơ vô tội để xác nhận những suy luận điên rồ của người đưa thư, lại vừa cung cấp một câu chuyện dị thường hết mức. Tới lúc này, Park trông cũng ngẩn ngơ như thể tâm trí bay đâu mất, và tôi thì chưa quyết định nổi xem nên làm gì tiếp theo. Đúng khi ấy, họa sĩ lặng lẽ giơ tay ra hiệu vẫy tôi lại gần rồi dúi vào tay tôi một mẩu ghi chú. “Tôi nghĩ có lẽ tố nhất nên trao nó cho người trẻ hơn ở đây. Anh hãy cầm lấy. Đây là địa chỉ của y-người có ảnh hưởng lớn nhất tới quyết định của lão già. Hai chúng tôi (anh ta chỉ vào người đưa thư đang đứng cạnh) sẽ cũng đợi anh ở đây. Cũng đâu có xa xôi gì.” Không chút cảnh giác, tôi cầm lấy mẩu giấy và nhìn sang ông Park, ông ta gật đầu ra hiệu và nói tôi hãy nhanh chân lên. Mẩu giấy chỉ ghi đúng một dòng, “Đường 405, Điện tử Si Gong.” Tôi cho nó vào túi áo khoác và bắt đầu bước lên bậc thang trong khi người họa sĩ hét lên phía sau: “Có vài thứ cậu cần mang theo đấy. Mở ngăn kéo thứ hai phía sau quầy hàng và cậu sẽ thấy một cuốn sách. Đó chính là khởi đầu của tất cả những chuyện này đấy. Lão già tội nghiệp đọc nó suốt ngày đêm trước khi đưa ra quyết định. Hãy nhớ mang theo bên mình. Người mà cậu sắp gặp giờ đây không thể tách rời khỏi cuốn sách đó. Có thể nói cuốn sách thế nào thì anh ta thế ấy.” Tôi mở ngăn kéo. Đúng thực có một cuốn sách trong đó. Trên bìa in hình một vũ trụ ở bên trong một vũ trụ khác, lồng bên trong vũ trụ ấy lại là những vụ trụ khác nhỏ hơn, và nhan đề cuốn sách là “Vũ trụ toàn ảnh: Hướng dẫn thực hành” được in đậm bằng chữ đen cỡ nhỏ. Khi đã bước ra ngoài và hít thở không khí mát lạnh, tôi chợt nghĩ có thể tất cả những gì mình vừa chứng kiến dưới căn hầm chỉ là một giấc mơ hay một trò bịp bợm. Nhưng sức nặng của cuốn sách trì lấy cánh tay là bằng chứng rằng mọi chuyện mới xảy ra không phải chỉ do trí tưởng tượng quá đà của riêng tôi. Tôi đi ra đến trucjk đường chính và ngước mắt tìm. Biển chỉ đường màu xanh lá có mũi tên chỉ rõ tuyến hướng về “Đường 405”.

***

“Thế có nghĩa… anh nói rằng mình là một nhà vật lý?”

Người chủ cửa hàng điện tử cười cay đắng. “Nói cho chính xác thì, trước kia, tôi đã rừng là một nhà vật lý.” Ông từ từ đứng dậy và biến mất vào bóng tối bên trong cửa hàng. Đến khi quay trở lại sau một hồi lâu, trên tay ông cầm một cuộn tư liệu cũ nát. “Anh đã bao giờ nghe nói tới Yoichiro Nambu chưa?” ông hỏi. Tôi lắc đầu. Một nụ cười nhợt nhạt thoáng qua trên gương mặt như thể ông biết chắc mình đang trù liệu điều gì. Ông mở dây buộc ra trước mắt tôi. Trong đó có một bài báo được cắt lại phải đến từ hơn 20 năm về trước, trên còn ghi rõ ngày 25 tháng 9 năm 2008. Bên dưới bức hình một quý ông tóc muối tiêu, là dòng chữ “Yochiro Nambu đoạt giải Nobel Vật lý.” “Nào, giờ thì anh chắc hẳn đã tin nếu tôi nói trước kia tôi từng làm trợ lí cho ông ấy. Một trong những vị cha đẻ của lí thuyết dây, Giáo sư Yoichiro đánh giá các ý tưởng của tôi cao hơn bất cứ ai khác. Nhưng… sau khi ông mất hồi năm 2015, tôi cũng đã rút chân khỏi giới học thuật. Những lí thuyết căn bản của tôi chỉ nhận lại được sự khinh miệt của mọi người. Họ chế nhạo tôi và hạ thấp tôi thành một nhà huyền học, một kẻ điên, hay thậm chí một nhà viết tiểu thuyết viễn tưởng hạng ba. Thực thế, họ nhất trí với nhau rằng vũ trụ có thể được nhìn như một hình ảnh ba chiều khổng lồ - và điều đó đã thực sự được chứng minh – nhưng không chấp nhận quan điểm của tôi về việc con người cũng có thể kiến tạo một vũ trụ toàn ảnh như thế nếu chúng ta đặt tâm trí của mình trong nó. Cuối cùng, tôi rời thành phố và về an dưỡng tại vùng nông thôn. Tôi lên kế hoạch sáng tạo ra một cái gì đó có thể xác nhận lí thuyết của tôi là đúng, và cũng để tôi có thể quay trở lại giới học thuật trong danh dự. Trực giác mách bảo lí thuyết của tôi cực kì hoàn hảo, nhưng khi chứng minh nó bằng toán học, phương trình liên tục cho ra những đáp án chết”.

Ông chủ cửa hàng điện tử, không, nhà vật lí, lại đứng lên khỏi ghế lần nữa và mang tới một tờ giấy thô cùng một cây bút. Trông ông như thể đang sắp sửa vẽ sơ đồ để giúp tôi hiểu hơn những gì ông nói. “Đây là một vòng tròn. Nhưng đừng nghĩ nó là một vòng tròn, hãy hình dung nó là khối cầu, và khối cầu này chính là vũ trụ của chúng ta. Đúng thế, đây chính là cách lí thuyết vũ trụ toàn ảnh vận hành. Tất cả chúng ta – anh, tôi, ngài Kim Sang-ok quá cố, họa sĩ, người đưa thư tất cả đều bị mắc kẹt trong tầng hầm – và mọi thứ - ngôi làng nông thôn ảm đạm này, mặt đất này, các đại dương, mặt trăng, và những ngôi sao trên bầu trời – thực chất đều là những khối toàn ảnh mà bên trong chúng là những dự phóng của thông tin hai chiều được ghi khắc trên bề mặt vũ trụ hình cầu. Ôi anh bạn ơi, tôi biết anh không tin tôi. Anh đang sờ nắn chân tay mình mà trên mặt đầy rẫy nỗi hoài nghi. Nhưng kể cả điều đó cũng không làm thay đổi được sự thật. Ngay từ kết cấu vũ trụ đã là một khối toàn ảnh ba chiều. Mà thôi, tôi cho rằng cũng chẳng nhất thiết bắt anh phải tin vào lí thuyết này về vũ trụ làm gì. Sau tất cả, sự thật không nằm sẵn ở đó để chúng ta tin hay hiểu. Đơn giản là thế giới là như vậy. Dẫu vậy, vẫn có một điều có thể chắc chắn được. Dựa trên thành công của thí nghiệm về va chạm tương đối i-on nặng (Cái quái gì thế nhỉ? Vâng, ngay cả giờ tôi có giải thích anh thêm cũng không thể nào hiểu nổi, nói chung anh chỉ cần biết có tồn tại một thứ như thế), đến năm 2018, lí thuyết vũ trụ toàn ảnh trở thành một ‘chân lý’. Điều ấy đồng nghĩa với việc không thể giải thích vũ trụ nếu không dựa vào lí thuyết toàn ảnh. Tôi đã đẩy thêm một bước và tiến tới tới một ý tưởng khác. Nếu chúng ta tạo một không gian khép kín và ghi thông tin lên bề mặt của nó, rất có thể chúng ta sẽ tạo ra được một vũ trụ toàn ảnh quy mô nhỏ.”

Chỉ lên bản sao cuốn “Vũ trụ toàn ảnh: Hướng dẫn thực hành” trên bàn, tôi hỏi: “Vậy cuốn sách này giải thích lí thuyết đó phải không?” “Đúng thế đấy! Trong đó có phần tổng hợp lí thuyết và phương pháp cần thiết để có thể tạo dựng một vũ trụ toàn ảnh nhân tạo. Không phủ nhận, đó mới là tất cả những gì tôi mượng tượng trong đầu. Nhưng sau khi Giáo sư Yoichiro qua đời, tôi chuyển về đây và tập trung nghiên cứu ngày một sâu hơn, cuối cùng cũng tạo được hình hài cho những hình dung ban đầu đó và biến nó thành lí thuyết. Tôi đã xây dựng một số giả thuyết và tìm được cách chứng minh nó một cách triệt để, tôi tin rằng độ chính xác trong lí thuyết của tôi rồi sẽ được công nhận. Tuy nhiên, còn một vướng mắc vẫn chưa giải quyết được. Như tôi vừa đề cập đến đấy, mỗi khi tôi cố gắng dùng toán học để chứng minh, phương trình lại cho ra những đáp án chết. Tôi đã điên cuồng lao thân vào giải quyết vấn đề. Hầu như đến quên ăn quên ngủ... Chẳng mấy chốc mà cả mặt tôi râu ria xồm xoàm tự lúc nào. Một đêm, tôi bước ra vườn để hưởng chút không khí trong lành. Khi di chân giụi đầu thuốc lá, tôi bất thần ngước nhìn bầu trời đêm. Gió đêm ấy thật là lạnh thấu da thấu thịt, và không một ngôi sao nào xuất hiện trên nền trời u ám dày đặc mây đen. Tôi chìm đắm vào suy tưởng. Trời tối đen như mực nhưng chắc chắn vẫn luôn có những vì sao nằm đâu đó phía bên kia bóng tối. Việc bạn không nhìn thấy không có nghĩa là nó không có ở đó. Những chiêm nghiệm này đến với tâm trí tôi đúng vào khoảnh khắc tôi chờ đợi nhất!”

“Ý ông là sao... Khoảnh khắc ư?”

“Thật là một cơn đốn ngộ. Đó là khoảnh khắc vinh quang khi những nơ-ron thần kinh trong não liên kết với nhau trong sự hợp nhất cao độ và trả cho bạn đáp án. Tôi nhận ra rằng nếu một ngày chúng ta tạo ra được vũ trụ toàn ảnh nhân tạo, sẽ là không đủ nếu chỉ ghi thông tin lên bề mặt của nó. Với một vũ trụ toàn ảnh thực thụ, các hạt phân tử mới thực vô cùng thiết yếu! Công bằng mà nói, đó là sự thật rõ ràng. Ngay cả khi chính bản thân chúng ta, ngôi làng này, và toàn thể thế giới này đều là hình ảnh ba chiều, thông tin trên đường biên của một vũ trụ xa xôi nào đó cũng vẫn phải bao chứa các hạt phân tử. Bởi chúng ta cũng chỉ là những cái bóng của các hạt thực tế ấy ánh xạ từ bên trong vũ trụ. Nguyên tắc tương tự, theo đó, cũng phải được áp dụng để kiến tạo vũ trụ toàn ảnh nhân tạo. Nói đơn giản, nếu bạn muốn tạo ra được một vũ trụ toàn ảnh quy mô nhỏ và sống trong nó, bạn phải tự biến bản thân thành dạng thông tin hai chiều để có thể được lưu trữ trên bề mặt của nó.” Tôi chăm chú nhìn nhà vật lí. “Chà, thú thực thì, tôi không có ham muốn được đến và sống trong một vũ trụ toàn ảnh đâu. Thêm nữa là, từ nãy tới giờ tôi chẳng để tâm mấy những điều ông nói đâu.” Chủ cửa hàng điện tử đáp lại tôi bằng nụ cười ngoác tận mang tai. “Anh không hiểu cũng là chuyện đương nhiên thôi. Ngay cả các nhà khoa học cũng còn chưa thông hiểu được lập luận của tôi cơ mà. Dù sao, cho phép tôi được giúp cậu thấy dễ hiểu hơn phần nào. Về cơ bản, anh sẽ phải tán rời chính mình ra thành những phân tử nhỏ nhất có thể, rồi sơn chúng lên một tờ giấy hay tấm vải vẽ được sử dụng làm bề mặt cho vũ trụ toàn ảnh nhân tạo.”

Tôi đứng phắt dậy. Dù không hiểu nổi từng chi tiết trong lập luận của nhà vật lí, tôi đã thu được ý tưởng chung về điều ông ta đang ngụ ý. “Hượm chút. Ông vừa nói gì? Đó là những gì cuốn sách viết về ư? Vậy nghĩa là ông Kim Sang-ok đã đưa ra quyết định sau khi đọc cuốn sách này?” Nhà vật lí học không trả lời. Thay vào đó, ông ta uống cạn cốc vitamin trước mặt, thở một hơi dài rồi lún sâu người trong chiếc ghế bành. “Trước tiên, tôi xin phép được kể nốt câu chuyện của mình. Phải rồi, đúng thế. Đêm đó tôi đã tìm ra phương thức cụ thể để kiến tạo một vũ trụ toàn ảnh nhân tạo. Tôi sung sướng đến phát điên. Tôi thử áp dụng giá trị của các hạt nguyên tử trong phương trình và bingo! Mọi thứ đều đâu vào đấy và vướng mắc đã được giải quyết ngon lành. Tôi không chợp mắt được chút nào đêm đó nhưng chẳng lấy gì làm khó chịu. Tôi đã viết một bài báo về lí thuyết mới của mình. Tuy nhiên, nó không được bất cứ ai đón nhận. Họ lo ngại rằng bài báo của tôi có thể đưa tới tác hại làm phá hoại thế giới. Họ hỏi tôi rằng liệu tôi có quan tâm tới những hậu quả phụ mà nó có thể đưa lại hay không. Và đó là những hệ quả kiểu gì. Đúng thế… chính xác theo cách những điều anh đang nghĩ tới trong đầu ngay bây giờ đấy. Liệu nó có đưa tới những quyết định kiểu như ngài Kim Sang-ok đã làm không? Tôi cảm thấy mình như vừa bị đâm sau lưng vậy. Đó là vấn đề cốt yếu nhất trong lí thuyết của tôi. Chỉ một rủi ro nhỏ nhất cũng có thể khiến thế giới chúng ta đang sống sụp đổ. Bất cứ ai sẵn sàng mạo hiểm cống hiến chỉ một sự hi sinh nhỏ (Dù nhiều người có thể cãi lại rằng chẳng có sự hi sinh nào là ‘nhỏ’. Để tạo sinh các hạt mang sự sống của chính mình, bạn phải nói lời vĩnh biệt cái cõi tạm này trong hiện tại để bước chân vào máy xay.) là sẽ có thể được sinh tồn vĩnh cửu trong vũ trụ nhân tạo của riêng mình”. Ông chủ cửa hàng điện tử, à không, nhà vật lí học nhìn chăm chắm vào mặt tôi rồi hỏi, “Nếu có thể, cậu muốn được quay trở lại thời điểm nào trong đời? Giai đoạn nào là thời hoàng kim trong đời cậu?” Thấy tôi còn do dự chưa trả lời ngay, ông mỉm cười sầu não rồi xua hai tay. “Không, thật ra anh không buộc phải nói với tôi những điều đó. Nhưng hãy thử tưởng tượng xem. Nếu chúng ta có thể quay trở lại những khoảnh khắc quý giá trong đời, lặp đi lặp lại những khắc giờ trân quý ấy, cậu nghĩ con người sẽ không lựa chọn sao? Đó là chưa nói nếu cuộc sống hiện tại của chúng ta chẳng khác gì địa ngục. Nếu là anh, anh sẽ lựa chọn thế nào? Sau vô vàn cân nhắc, tôi quyết định từ bỏ lí thuyết của mình, viết thư yêu cầu nhà in hủy tất cả các bản in cuốn sách của tôi mà trước đó tôi đã tự bỏ tiền ra xuất bản. Tôi rợn người khi nghĩ đến viễn cảnh nội dung cuốn sách rồi sẽ được lan mỗi lúc một xa và rộng. Chủ nhà in thực lòng lấy làm tiếc về quyết định của tôi. Nhưng ông ta tôn trọng nguyện vọng của tôi và chỉ lặng lẽ gật đầu. Nắm chặt lấy hai tay tôi như muốn trấn an, ông ta hứa sẽ tìm tất cả cho đến tận bản cuối cùng. Nhưng vậy là tôi đã phạm phải sai lầm. Nếu như tôi tự tay mình đốt đi tất cả, tất cả những hệ lụy sau này đã không xảy tới. Mãi tới sau này (sau chuyến viếng thăm lần đầu tiên của ngài Kim Sang-ok), tôi mới quay lại nhà in và yêu cầu được nghe toàn bộ sự tình, ông chủ nhà in tốt bụng mới hồn nhiên đáp lời, “Xin ông thứ lỗi. Tôi là một người làm sách, vậy nên tôi không thể chịu đựng được việc mình tự tay đốt những bản sao ấy đi… Tôi chỉ biết đặt chúng vào một cái thùng rác tái chế với hi vọng sẽ có người đến lấy và đọc chúng”. Mắt ông ta rơm rớm như chực khóc, và vì không muốn khiển trách làm tổn thương ông ta thêm nữa, tôi bỏ về nhà. Một lần nữa, mắt tôi vô thức liếc nhìn bản in cuốn “Vũ trụ toàn ảnh: Hướng dẫn thực hành” đặt trên bàn. “Điều đó cũng có nghĩa là rất nhiều bản sao có thể đang nằm trên giá sách của nhiều người khác, phải vậy không?” Và chính họ cũng đang cố công tìm cách chuyển hóa mình thành những hạt phân tử nhỏ xíu trong niềm hi vọng sẽ sáng tạo ra được một vũ trụ toàn ảnh nhân tạo của riêng mình. Nhà vật lý ngước nhìn cánh quạt trần, lộ rõ vẻ đau đớn. “Tôi không phủ nhận điều đó. Tôi chỉ có thể hi vọng rằng những người đã nhặt lấy cuốn sách của tôi về đều là những người có được hạnh phúc trong cuộc sống. Những người hài lòng với cuộc sống của mình ở đây và bây giờ sẽ không có ước vọng bước chân vào một vũ trụ nhân tạo để tồn tại vĩnh cửu trong đó. Tôi vẫn nhớ như in ngày ngài Kim Sang-ok đẩy cửa bước vào, mặt đỏ bừng. Ông ta la lớn, “Tất cả những gì trong cuốn sách đều là thật ư? Tôi có thể tiếp tục sự sống của mình trong một thế giới tự mình chọn lựa ư?” Điều ấy, với tôi là đương nhiên, nhưng thâm tâm xui khiến tôi đáp lại rằng, ‘Mọi thứ trong sách đều sai cả. Nó chẳng là gì khác ngoài ngón bịp tinh vi của một nhà khoa học điên rồ chỉ muốn nguệch ngoạc vài thứ cho đỡ chán đời’. Dù vậy, nhìn ánh mắt chứa chan hi vọng của ông ta, tôi không thể cất những lời ấy lên. Tất cả những gì tôi có thể làm khi ấy là gật đầu.”

Không biết phải nói thêm gì, tôi giơ tay nghịch bức ảnh Yoichiro Nambu trước mặt. Tất cả những điều tôi vừa nghe về lí thuyết dây, đường biên vũ trụ, gia tốc hạt cơ bản, tất cả đều không khiến tôi lưu tâm hay tò mò. Tôi chỉ bận tâm đến người thợ khóa già, kẻ khao khát tự tạo ra một vũ trụ của riêng mình và sống trong nó. Nhưng ông ta thì đã chết rồi. Bị cuốn sách dị thường cám dỗ, ông đã tự lấy đi mạng sống của mình. Không chỉ thế, ông còn sắp đặt để thân thể mình được đặt vào cối xay và trộn lẫn cùng sơn màu để trở thành một phần của một bức tranh lớn. Đó là cái thế giới kiểu gì mà khiến ông ta sẵn sàng trải qua tất cả những điều đó?

Như thể đọc được suy nghĩ của tôi, nhà vật lí nở một nụ cười bí hiểm. “Có phải cậu… đang thương tiếc cho cái chết của lão già không? Vậy thì, tôi có thể nói cho cậu biết một điều chắc chắn. Kim Sang-ok không còn tồn tại ở đây nữa nhưng đổi lại, ông ta đã tìm được một cuộc đời mà ông ta đã khát khao hướng tới ở một vũ trụ khác được tạo sinh từ chính thân thể của ông ta. Sao cậu không đưa cho tôi xem cuốn sách một chút nhỉ. Đây này, trang bao nhiêu ấy nhỉ? À, chính đây rồi, trang số 128. Đọc đoạn này đi và cậu sẽ hiểu vì sao người đàn ông già nua ấy cương quyết làm tất cả những điều đó, và tại sao chúng ta phải tôn trọng lựa chọn ấy của ông. Ai đó – chắc hẳn chính là ông Kim Sang-ok – đã gạch chân đi gạch chân lại đoạn này nhiều lần. Hành động bước vào vũ trụ toàn ảnh do con người kiến tạo ra theo một cách hoàn toàn mới này có ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào người quan sát. Trong trường hợp người trực tiếp thực hiện quá trình chuyển đổi, anh ta/cô ta chỉ đơn thuần dịch chuyển từ một vũ trụ này một sang vũ trụ khác. Tuy nhiên, trong mắt những người quan sát vũ trụ toàn ảnh nhân tạo từ điểm nhìn bên ngoài, toàn bộ quá trình này dường như chỉ là một trò mạo hiểm với cái chết. “Vài ngày sau đó, ông Kim sang-ok trở lại tìm tôi cùng người họa sĩ có vẻ ngoài tiều tụy. Tôi đã thiết kế bản vẽ bề mặt hai chiều của vũ trụ toàn ảnh theo đúng ý ông già muốn, và người họa sĩ chấp thuận sẽ chuyển nó lên mặt vải. Đúng như quy chuẩn tự nhiên, cả bốn bức tường cùng trần và mặt sàn tầng hầm được phủ sơn toàn bộ để tạo thành đường biên của vũ trụ. Phần còn lại thì cậu trông thấy rồi đấy.” Nhà vật lí ngưng một chốc và nhìn lên đồng hồ treo tường. “Được rồi, giờ tôi sẽ nói đi tới câu hỏi cuối cùng. Ông Kim Sang-ok đang ở đâu? Tôi có thể biết chắc đây mới chính là điều khiến cậu tò mò nhất. Cơ bản mà nói, ông ta đang ở dưới tầng hầm. Nhưng điều ấy không có nghĩa là ông ta đang thực sự sống dưới đó. Cậu hiểu ý tôi chứ? Nói cách khác, ông ta đã bước vào vũ trụ toàn ảnh ở một chiều kích hoàn toàn khác. Chúng ta không thể nhìn hay chạm vào được thời gian và không gian của nó. Trước khi thiết kế vũ trụ nhân tạo cho ông già, tôi từng nói với ông ấy rằng, ‘Vui lòng cho tôi biết những mốc thời gian bạn muốn quay trở lại. Tôi sẽ đưa những thông tin ấy vào các đường biên tương ứng.’ Gần như chẳng mất tới một giây suy ngẫm, ông ta lập tức đáp rằng, ‘Tôi muốn được quay lại buổi chiều ngày 15 tháng 4 năm 2014. Xin cho tôi mãi mãi được ở trong khoảnh khắc ấy, tôi cầu xin ông.’ Vậy đấy. Và trước khi giải thích vì sao ông ta chọn mốc thời gian này, tôi rất muốn chỉ cho cậu vài điều. Cậu có tò mò về việc vũ trụ toàn ảnh của ông Kim Sang-ok – cái vũ trụ nằm bên dưới tầng hầm cửa hàng chữa khóa nhưng hoàn toàn vô hình trước mắt chúng ta ấy – trông nó thế nào không? Tôi có cài đặt một chương trình đặc biệt trên máy tính của mình có chức năng dịch mã thông tin hai chiều thành toàn ảnh ba chiều. Cậu có muốn ngó qua không?”

Ban đầu, trên màn hình hiển thị các dấu chấm, các đường nét và góc cạnh chồng chéo không thể hiểu nổi. Kiên nhẫn quan sát thêm, tôi nhận ra những khuôn hình tưởng chừng dị thường ấy bắt đầu mang những hình dạng có phần quen thuộc. “Phải rồi, đúng vậy. Chúng giống hệt như trên tấm vải vẽ bên dưới tầng hầm.” Lát sau, những khối hình tụ lại một góc và biến thành một khối quay. Khối lập phương này rỗng bên trong, nhưng đột nhiên, một đốm sáng xuất hiện ở chính giữa và lớn dần lên. Điểm sáng này không ngừng lan tỏa cho tới khi phát nổ, bắn ra những tia sáng trải khắp màn hình. “Cậu cứ hình dung nó hệt như vụ nổ Big Bang ở quy mô nhỏ. Một vũ trụ mới đã vừa xuất hiện. Giờ thì, hãy xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.” Các tia sáng từ điểm tụ bắn thành hàng trăm ngàn vệt, rồi tiếp tục quay vòng theo quỹ đạo. Hình ảnh xoay vòng trên màn hình sắp khiến tôi quay cuồng chóng mặt thì bất ngờ khựng lại, cuối cùng, một không gian ba chiều được tạo ra. Hình ảnh cửa hiệu sửa khóa hiện dần lờ mờ hiện lên. Một người đàn ông già. Lớp thạch cao quấn quanh ngón cái trên bàn tay phải. Một cậu bé chạy ra cửa với chiếc ba-lô trên vai. Tấm lịch trên bàn khoanh tròn những ngày đặc biệt: 16, 17, 18 và 19 tháng 4 năm 2014.

“Cách đây rất lâu rồi, ông ấy đã mở một cửa hiệu sửa khóa ở tỉnh Gyeonggi. Giờ, ông ấy lặp đi lặp lại vĩnh viễn những khoảnh khắc ấy, và thường mỉm cười một mình. Đương nhiên, ông ta không hề biết rằng vẫn chỉ mãi là những ngày đó nhưng được xoay trong một vòng lặp. Ông ta không bao giờ nhận ra được rằng mình là một phần của cái vũ trụ toàn ảnh của chính mình. Thời điểm ông bước chân vào thế giới đó, mọi thứ được thiết lập lại. Ông ấy chắc chắn phải có được hạnh phúc. Ít nhất là đỡ khổ đau hơn khi còn sống ở thế giới này. Xét cho cùng, ông ấy đã được chọn lựa không gian và thời gian thuộc thời hoàng kim của cuộc đời mình. Cậu hiểu chứ? Hãy nhìn nụ cười trên gương mặt ông ta… Liệu ai trên thế giới này đủ tự tin để khẳng định rằng ông ấy không có quyền làm tất cả những điều ấy với chính mình?” Tôi nhìn vào màn hình một hồi lâu, phóng to các góc khác nhau của không gian ấy. Cuối cùng, tôi cố phóng hình ảnh gương mặt ông lớn hết mức có thể, cho tới khi chỉ còn lại đôi mắt choán lấy toàn bộ màn hình. Tôi trông thấy hình ảnh một cậu bé phản chiếu bên trong đôi mắt ấy.

“Chú nhóc là cháu trai ông già. Gia đình duy nhất lão từng có… Tôi không biết ông ta gọi cậu nhóc thế nào. Ông chưa bao giờ nói cho tôi tên cậu bé.”

“Nhưng… Tại sao?”

“Sau ngày hôm đó, ý tôi là sau ngày 15 tháng 4 năm 2014 ấy, đứa trẻ không bao giờ trở về nữa. Nó đã bị chìm xuống đáy biển, sâu thật sâu vì vụ chìm phà. Tất cả những đứa trẻ trên chuyến phà đó. Cùng tất cả những người lớn trên đó.”

“Ông nói là… tháng 4 năm 2014 ư?”

“Tôi đoán cậu không biết vụ đó. Khi ấy chắc cậu mới chỉ là một cậu bé con.”

Tôi gần như không còn nghe được tiếng ông ta thì thầm.

“Thật lạ quá, phải không? Ý tôi là màu sắc thực sự của sự lãng quên.”

Chính lúc ấy, điện thoại bắt đầu rung lên trong túi áo tôi. Người gọi là Park, người đưa thư:

“Chúng ta gặp phải rắc rối lớn rồi. Tôi ngủ gật trong một phút và khi mở mắt ra, tên họa sĩ đã biến mất. Tôi chạy ra ngoài tìm nhưng không thấy đâu. Cậu đang làm gì? Cậu tìm được gì ở cửa hàng điện tử đó?” Tôi do dự không trả lời. Đầu bên kia giọng anh Park hoảng hốt: “Tôi phải làm gì đây? Tôi sẽ gọi cảnh sát.”

“Không, xin anh đừng. Thật ra, mọi điều họa sĩ nói với chúng ta là sự thật. Hãy bình tĩnh đợi tôi.”

Sau một thoáng im lặng, Park cúp máy. Nhà vật lý gật đầu với tôi. “Tôi không còn gì để nói nữa. Phần còn lại tùy thuộc cả vào cậu.”

Tôi mở cửa bước ra ngoài. Đột nhiên tôi nhớ ra mình quên cái gì đó và quay lại. Tôi lấy bản in cuốn “Vũ trụ toàn ảnh” vấn giấu dưới cánh tay mình và trao lại cho nhà vật lý. “Xin ông thứ lỗi… Cái ngày mà ông vừa nhắc tới, xin ông hãy viết lại nó cho tôi. Con phà chìm cùng những người trên chuyến phà đó… Tôi muốn biết mình đã thiếu hiểu biết đến thế nào và người ta đã vô tâm lãng quên ra sao.”

Ông lấy bút ra và sau vài giây ngập ngừng, ông đặt bút viết chậm rãi viết xuống giấy bảy chữ số, theo hàng ngang.

 

Quốc Hiếu – Thái Hà (dịch)

Theo bản dịch tiếng Anh của Helen Cho, Kim Stoker hiệu đính.