Thứ Hai, 10/02/2020 10:26

Trái tim mùa xuân

Có một lão già khuôn mặt chằng chịt vết chân chim ngồi thiền trên một bờ đá thuộc hòn đảo nhỏ cây cối xanh tốt dọc bờ Lough Gill.

. Truyện ngắn của William Butler Yeats (Anh)

Có một lão già khuôn mặt chằng chịt vết chân chim ngồi thiền trên một bờ đá thuộc hòn đảo nhỏ cây cối xanh tốt dọc bờ Lough Gill. Một chàng trai mười bảy tuổi gò má đỏ nhạt ngồi cạnh lão, say sưa ngắm những con chim nhạn chúc mỏ lao xuống mặt nước tĩnh lặng. Lão già mặc bộ đồ nhung màu xanh rách rưới, chàng trai khoác áo choàng len, đội mũ lưỡi trai xanh và cổ cậu cũng đeo chuỗi hạt màu xanh. Phía sau hai người là một tu viện nhỏ, một nửa được che phủ bởi cây cối. Nó bị thiêu rụi đã lâu dưới bàn tay của những người đàn ông phạm thượng thuộc Đảng Nữ Hoàng, nhưng đã được chàng trai lợp mái lại bằng cói, và lão già đã tìm được nơi nương náu cuối đời của mình. Nhưng lão không động tới khu vườn, hoa huệ và hoa hồng của các nhà sư đã mọc lan um tùm khắp lối và lẫn với những bụi dương xỉ thu mình. Ngoài hoa huệ và hoa hồng, những bụi dương xỉ cũng cao tới nỗi không thể nhìn thấy một đứa trẻ đi trong đó, dù nó có kiễng chân lên nữa; và qua bụi dương xỉ hoa hồng là vô số cây phỉ và cây sồi nhỏ.

“Bạch thầy”, chàng trai nói, “Việc nhịn ăn lâu ngày cùng với việc lao động miệt mài lúc trời tối đối với người sống trên sông nước giữa những rặng cây phỉ và sồi thế này là quá sức với thầy lắm. Thầy nghỉ ngơi lát đi, bởi tay thầy dường như đã nặng hơn trên vai con và chân thầy không còn bước đi bình thường được. Người ta nói rằng thầy đã già hơn chim đại bàng, và thầy sẽ không đi tìm những điều còn lại của cuộc đời nữa.” Cậu say sưa nói, như thể trái tim cậu đặt trọn vào ngôn từ và suy nghĩ trong khoảnh khắc đó; còn lão già chậm rãi trả lời, trái tim ông lại như đang ở nơi xa xôi nào đó.

“Ta sẽ nói cho con biết lí do ta không thể nghỉ ngơi,” lão nói “Đúng ra con nên biết, vì con đã nhiệt tình chăm sóc ta đã hơn năm năm với tình cảm chân thành, làm vơi đi một chút nỗi cô đơn luôn chiếu xuống những người tỉnh thức. Giờ đây, công việc của ta sắp kết thúc và niềm hi vọng đang nằm trong tầm tay, con cũng cần biết những điều này.”

“Bạch thầy, thầy đừng nghĩ con bắt bẻ thầy. Hãy để con giữ cho ngọn lửa luôn sáng, làm mái che mưa, để không còn lo gió mạnh thổi giữa hàng cây; hãy để con lấy những cuốn sách nặng từ trên giá, lôi ra từ trong góc của nó những cuộn sơn lớn với cái tên của người Sidhe, ám ảnh một trái tim lạnh lùng và tôn kính, cho con biết rằng Thượng đế tạo ra sự phong phú của Ngài bởi sự thông thái tách rời sự sống, và để làm những việc này là do sự từng trải của con.”

“Con đang sợ hãi,” lão già nói, mắt lão thoáng ánh lên những tia giận dữ.

“Thi thoảng vào ban đêm”, chàng trai nói, “khi thầy đọc sách cùng cây gậy gỗ trong tay, con nhìn ra ngoài cửa và trông thấy một người to lớn xám ngắt cưỡi lợn trong bụi cây phỉ, và giờ đây là những người tí hon đội mũ đỏ cưỡi bò trắng ra khỏi hồ. Con không sợ những người tí hon bằng người màu xám kia; rồi, khi tới gần ngôi nhà, họ vắt sữa bò uống rồi nhảy múa, và con biết họ có trái tim lương thiện khi thích nhảy múa; nhưng con vẫn sợ. Con cũng sợ những cô gái tay dài trắng muốt bay ra khỏi không trung, di chuyển chầm chậm tới đó, đội vương miện hoa hồng và hoa huệ, rung lên mái tóc sống động, con đã nghe họ nói chuyện với nhau, bằng sự chuyển động của suy nghĩ, đang lan tỏa và tụ lại mái đầu của họ. Họ có khuôn mặt đẹp dịu dàng, nhưng Aengus, con trai của Forbis, con sợ những người này, con sợ người của Sidhe, và con sợ nghệ thuật sẽ hút họ về phía ta.”

“Tại sao,” lão già nói, “con có sợ những vị thần cổ xưa đã giúp tổ tiên con làm giáo để dũng mãnh ra chiến trận, và những người tí hon đến lúc nửa đêm từ những hồ sâu hát vang cùng dế trên lò sưởi của họ không? Và trong những ngày tội lỗi của chúng ta, họ vẫn ngắm nhìn vẻ đẹp của Trái Đất. Ta phải nói cho con biết tại sao ta nhịn ăn và làm việc khi người khác đã chìm vào giấc ngủ, bởi nếu không có sự giúp đỡ của con thì ta không thể nhịn ăn và làm việc tốt như thế được. Khi con làm cho ta điều cuối cùng này, con có thể ra đi xây một ngôi nhà, lấy vợ và quên đi những vị thần cổ đại. Ta đã giữ các thỏi vàng và bạc mà bá tước và hiệp sĩ giao cho ta phòng sự nhòm ngó của quỷ dữ và những kẻ thèm khát, và những phu nhân của bá tước hay kị sĩ phòng người Sidhe vắt kiệt sữa bầy gia súc của họ, rồi làm bơ từ những thùng đựng sữa. Ta đã dành tất cả thời gian tới khi công việc cần kết thúc, và nó đang trong tầm tay, con sẽ không thiếu vàng bạc để tân trang lại mái nhà nhỏ của mình và đồ ăn dự trữ đầy đủ. Ta đã đi trọn cuộc đời để tìm ra bí mật cuộc sống. Ta không hạnh phúc trong tuổi trẻ, vì ta biết rằng nó đã qua; ta không hạnh phúc khi đã trưởng thành, vì ta biết tuổi già đang tới; và thế nên ta đã tự cho mình, được sống trong tuổi trẻ, trưởng thành và khi già, để tìm ra bí mật tuyệt diệu. Ta đã khát khao cuộc sống phồn thịnh nhiều thế kỉ, ta coi thường tuổi già. Ta sẽ là, không, ta sẽ được như các vị thần cổ đại của mảnh đất này. Hồi trẻ ta đã đọc nguyên cảo của người Do Thái trong một tu viện Tây Ban Nha, có một khoảnh khắc khi mặt trời tới Ram và trước khi nó qua Lion, sẽ rung lên giai điệu của sức mạnh bất diệt, và những ai bắt gặp khoảnh khắc này và nghe thấy giai điệu ấy sẽ thấy như chính mình trở nên bất tử; ta trở lại Ireland và hỏi những vị tiên, những chuyên gia về bò xem họ có biết khoảnh khắc ấy không, nhưng không ai tìm được khoảnh khắc ấy trên múi giờ. Vì vậy ta đã tự mình làm phép, dành cả cuộc đời để ăn kiêng và lao động để các vị thần tiên đến với ta; và giờ đây một trong những vị tiên cuối cùng nói với ta rằng khoảnh khắc ấy đã trong tầm tay. Một người đội mũ đỏ và đôi môi gợn bọt trắng của sữa nói thầm vào tai ta. Ngày mai, trước một giờ đồng hồ khi bình minh, ta sẽ gặp khoảnh khắc ấy, rồi ta sẽ đi tới vùng đất phía nam, tự xây một cung điện bằng đá cẩm thạch trắng giữa những cây cam, và thu hút những người dũng cảm và đẹp đẽ đến bên ta, và bước vào vương quốc vĩnh cửu của tuổi trẻ. Nhưng, để có thể nghe trọn giai điệu, người bạn bé nhỏ với bọt sữa trên môi nói với ta, rằng con phải mang thật nhiều cành cây xanh tốt và xếp chồng ở cửa ra vào và cửa sổ phòng ta; con phải đặt những cây cói còn tươi lên sàn nhà, và phủ lên các mặt bàn và nền cói bằng hoa hồng và hoa huệ của các nhà sư. Con phải làm việc này vào đêm nay, và buổi sáng vào cuối giờ đầu tiên khi bình minh, con phải đến tìm ta”.

Ảnh minh họa.

“Vậy trông thầy sẽ rất trẻ chứ?” chàng trai hỏi.

“Ta sẽ trẻ lại như con vậy, nhưng giờ ta vẫn già và mỏi mệt, và con phải giúp ta đi đến cái ghế và lấy mấy cuốn sách”.

Khi chàng trai rời Aengus con trai của Forbis trong phòng, thắp đèn bằng một vài món đồ của phù thủy, nó tỏa ra thứ mùi hương ngọt ngào như của loài hoa lạ, cậu bước vào rừng, bắt đầu chặt những cành cây phỉ xanh tươi và những bó cói lớn từ rìa đảo phía tây, nơi những hòn đá nhỏ nằm trên dải cát và đất sét thoai thoải. Khi cậu cắt được một lượng đủ dùng thì trởi đã sẩm tối, và tới khuya cậu đã mang bó cuối cùng về, rồi đi tới khóm hoa hồng và hoa huệ. Đó là một trong những đêm ấm áp và đẹp đẽ khi mọi thứ dường như được khắc bằng đá quý. Rừng Sleuth xa phía nam dường như bị lấy mất chút màu xanh ngọc bích, và dòng nước phản chiếu chúng trông như những ngọn đuốc mờ nhạt. Những bông hồng cậu hái tựa những viên ngọc sáng, và hoa huệ có màu ngọc trai rực rỡ. Dường như mọi thứ đều mang vẻ bất khả xâm phạm, ngoại trừ một con đóm phát sáng, ánh lửa mờ ảo ánh lên trong bóng tối, từ từ di chuyển theo hướng đó, thứ duy nhất có vẻ còn tồn tại, thứ duy nhất có vẻ sẽ bị diệt vong như hi vọng chết người. Chàng trai hái được một ôm lớn hoa hồng và hoa huệ, xô những con đom đóm giữa màu ngọc trai và hồng ngọc của hoa rồi mang chúng về phòng, nơi lão già đang ngồi lim dim ngủ. Cậu đặt từng ôm lên sàn nhà và trên bàn, nhẹ nhàng đóng cửa, quăng mình lên giường để mơ tới cảnh gã trai bình an với cô vợ bên cạnh, và tiếng cười trẻ thơ tràn ngập quanh tai. Khi bình minh, cậu tỉnh giấc đi xuống bờ hồ, mang theo chiếc đồng hồ cát. Cậu đặt chiếc bánh mỳ và bình rượu lên thuyền để sư phụ cậu không thiếu thức ăn trong cuộc hành trình, rồi ngồi đợi sau một giờ khi bình minh trôi qua. Chim chóc bắt đầu hót vang, và khi những hạt cát cuối cùng rơi xuống, mọi thứ bỗng như ngập chìm trong âm nhạc. Đó chính là thời khắc đẹp và sống động nhất của năm; người ta có thể lắng nghe nhịp đập của trái tim mùa xuân rộn vang trong đó. Cậu ngồi dậy và đi tìm sư phụ của mình. Những cành cây xanh tốt lấp đầy cánh cửa, cậu phải rẽ chúng ra. Khi cậu bước vào phòng, ánh mặt trời rớt xuống những vòng tròn lấp lánh trên sàn, trên tường và trên mặt bàn nữa, và mọi thứ đều như phủ ngập bóng râm màu xanh lá cây. Nhưng lão già ngồi bất động giữa những bó hồng và huệ trên tay, đầu lão gập xuống ngực. Trên bàn, phía bên trái lão, là chiếc ví da thuộc đầy những thỏi vàng bạc, như để cho chuyến đi này, bên tay phải lão là cây gậy dài. Chàng trai chạm vào lão và lão không cử động. Cậu nhấc cánh tay lão lên, nhưng khá lạnh, và chúng trĩu xuống nặng nề.

“Vậy tốt hơn cho thầy”, cậu nói, “xin hãy nói với tràng hạt và khấn nguyện như những người khác, và không lãng phí thời gian đi tìm quyền năng bất diệt mà có thể thầy đã tìm được trong những việc làm và tháng ngày mong đợi. Và, đúng vậy, tốt nhất nên nói những lời cầu nguyện và hôn lên tràng hạt của thầy!” Cậu nhìn bộ đồ nhung rách nát màu xanh nhạt, và nhận ra nó đã phủ đầy phấn hoa, rồi một chú chim đậu giữa những cành cây xếp chồng lên bên cửa sổ, cứ thế hót vang.

NGUYỄN THỊ THÙY LINH dịch từ văn bản tiếng Anh