Thứ Hai, 17/02/2020 09:38

Trăng – Biểu tượng lung linh đa nghĩa trong thơ Bác Hồ

Bác có 14 bài thơ viết về trăng. Trăng vốn là đối tượng thẩm mỹ trong thơ Người. Hoài Thanh nói “Thơ Người đầy trăng” là rất có cơ sở... (NGUYỄN CAO)

.NGUYỄN CAO

 

Bác có 14 bài thơ viết về trăng. Trăng vốn là đối tượng thẩm mỹ trong thơ Người. Hoài Thanh nói “Thơ Người đầy trăng” là rất có cơ sở. Trăng trong thơ Bác như một người bạn tri âm: “Trung thu ta cũng Tết trong tù/ Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu/ Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt/ Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu” (Trung thu). Tại chiến khu Việt Bắc, trong đêm khuya, cảnh đẹp, trăng thanh, Bác hồ làm thơ: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa/ Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ/ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” (Cảnh khuya). Bộn bề việc nước việc quân nhưng thi sỹ Hồ Chí Minh vẫn có những vẫn thơ đẹp về trăng: “Rằm xuân lồng lộng trăng soi/ Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân/ Giữa dòng bàn bạc việc quân/ Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” (Rằm tháng Giêng). Bác có bài thơ thật hay tái hiện bức tranh thiên nhiên hữu tình. Nhưng vẫn thấy một chủ thể trữ tình thao thức với cái đẹp, thao thức với cuộc sống kháng chiến. Bài thơ vừa có cảnh tiên vừa có cảnh thực: “Dòng sông lặng ngắt như tờ/ Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo/ Bốn bề phong cảnh vắng teo/ Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan/ Lòng riêng riêng những bàn hoàn/ Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng” (Đi thuyền trên sông Đáy)…Dưới đây chúng tôi xin khảo sát hình tượng trăng mang ý nghĩa biểu tượng.

1.Trăng – biểu tượng cho cái đẹp

Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn. Người làm thơ chủ yếu bằng tiếng Việt và tiếng Hán. Nhật ký trong tù xứng đáng là “quốc bảo” vì giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đặc sắc, độc đáo. Các nhà nghiên cứu hầu như thống nhất đặc trưng thơ Hồ Chí Minh cổ điển mà hiện đại, trong sáng mà giản dị, ngắn gọn mà súc tích, cô đọng, hình tượng luôn vận động vươn về phía ánh sáng…Trăng trong thơ Người trước hết là một biểu tượng cho cái đẹp.

Bài Cảm tưởng đọc Thiên gia thi có câu: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp/ Mây, núi, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”, thì “trăng” ở đây là nói về một đối tượng thẩm mỹ của thơ xưa. Sau này, năm 1947, trong bài Cảnh rừng Việt Bắc, có hai câu cuối: “Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xưa, hạc cũ, với xuân này”, thì trăng cũng là đối tượng của nghệ thuật.

Trăng trong thơ Hồ Chí Minh quấn quýt với các hình tượng thẩm mỹ khác tạo ra thế giới nghệ thuật trong sáng, tinh khiết lạ thường: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa/ Cảnh khuya như vẽ người đi ngủ/ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” (Cảnh khuya). Trăng trong thơ Bác kế thừa, tiếp nối thơ Chinh phụ ngâm: “Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm/ Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông/ Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng/ Nguyệt hoa, dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”. Ánh trăng rót xuống hoa, hoa lộng lẫy dưới ánh trăng. Ở đây là hai tấng không gian. Bác Hồ mở ra một không gian thứ ba: trăng/ cổ thụ/ hoa.

Hai câu đầu là cảnh có âm thanh (tiếng suối), có hình ảnh, màu sắc (trăng hoa). Hai câu sau là tâm trạng. Hai chữ “cảnh khuya” ở giữa bài thơ khép mở hai không gian: cổ điển hôm qua và hiện đại hôm nay; khép mở hai thế giới: cảnh tiên và cảnh thực; khép mở hai tâm trạng: thi sĩ và chiến sĩ.

2. Trăng – Biểu tượng cho chân lý vĩnh cửu.

Dựa vào nét nghĩa vĩnh cửu, vĩnh viễn của hình tượng “trăng”, bài Chơi giăng là ngụ ngôn về muốn cách mạng thành công thì bước đầu phải là công tác tổ chức:

“Nguyệt rằng: "Tôi kính trả lời ông:

Tôi đã từng soi khắp núi sông,

Muốn biết tự do chầy hay chóng,

Thì xem tổ chức khắp hay không.

Nước nhà giành lại nhờ tài sắt,

Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng.

Tổ chức, tuyên truyền càng rộng rãi,

Tức là cách mệnh chóng thành công..."[1]

Những tác phẩm ngụ ngôn trên thực sự nghệ thuật, một thứ nghệ thuật tuyên truyền rất giản dị mà hiệu quả.

3.Trăng – biểu tượngbạn bè thân tình, chân tình gần gũi chia sẻ.

Trăng trong thơ Bác như một người bạn có những hành động thân mật của người bạn: Trăng nhòm, trăng ngắm, trăng soi, trăng nhích, trăng vào, trăng theo,…

Đầu năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật đi thăm Trung Quốc và Liên Xô, ngày 11-3-1950 trên đường từ Bắc Kinh về nư­ớc Bác có bài thơ Ly Bắc Kinh (Rời Bắc Kinh):

Ký Bắc thiên tâm huyền hạo nguyệt,

Tâm tuỳ hạo nguyệt cộng du du.

Hạo nguyệt thuỳ phân vi l­ưỡng bán?

Bán tuỳ cựu hữu, bán chinh phu.

(Trời Ký Bắc treo vầng trăng rọi,

Lòng theo trăng vời vợi sáng ngời.

Vầng trăng ai xẻ làm đôi?

Nửa theo bạn cũ, nửa soi lữ hành – Phan Văn Các dịch)[2].

Ai cũng thấy Bác tập Kiều, khi Thúc Sinh đang nồng nàn với Kiều thì phải chia tay: Ng­ười lên ngựa, kẻ chia bào… Ngư­ời về chiếc bóng năm canh/ Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi. Không gian vật lý đã trở thành không gian tâm lý: Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm tr­ường (câu 1525,1526) Bác Hồ đã tái hiện lại không gian chia ly nhớ nhung luyến tiếc nh­ưng dĩ nhiên với một tâm lý, hoàn cảnh khác:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi?

Nửa theo bạn cũ, nửa soi lữ hành

Điểm đặc biệt là Bác tập Kiều bằng chữ Hán!

Theo đồng chí Phan Anh, “Năm 1950, một hôm Hội đồng Chính phủ họp trong rừng, đêm khuya, trăng lên rất đẹp, rất nên thơ. Bên cửa sổ, Bác bỗng nảy ý thơ, Bác viết ngay bài thơ bằng bút chì và đưa tôi đọc:

Song ngoại nguyệt minh lung cổ thụ

Nguyệt di thụ ảnh đáo song tiền

Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu

Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên”[3]

Bài này có tên “Đối nguyệt” (Dưới trăng). Bản dịch của luật sư Phan Anh:

Ngoài sân, trăng sáng lồng cây,

Trăng đưa bóng ngả, bóng cài bên song

Việc quân, việc nước bàn xong

Bên song ôm gối, gối cùng trăng mơ.

Bản dịch này có hai chữ “gối cùng” rất hay, rất đúng với con người Bác như muốn hoà lẫn vào thiên nhiên, bạn bè, tâm sự với trăng.

Bản dịch khá tài hoa của Nam Trân:

Ngoài song, trăng rọi cây sân,

Ánh trăng nhích bóng cây gần trước song,

Việc quân, việc nước bàn xong,

Gối khuya yên giấc, bên song trăng nhòm.

Bản dịch của Nam Trân hay theo một ý khác, ở chữ “nhòm”. Chữ này cho thấy trăng như một người bạn đến thăm mà bạn ngủ nên đứng ngoài song mà “nhòm” vào. Vừa yêu bạn, hiểu bạn (vất vả nên ngủ say) và tôn trọng, trân trọng người bạn cố tri.

Nhà thơ Cù Huy Cận được đồng chí Phạm Văn Đồng đưa cho dịch bài thơ Báo tiệp của Bác:

Nguyệt thôi song vấn: thi thành vị?

Quan vụ nhưng mang vị tố thi

Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,

Chính thị Liên khu báo tiệp thì.

Dịch xong, Huy Cận lên gặp Bác được khen: “Chú dịch được”

Tin thắng trận

Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau.

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận Liên khu báo về (1948).

Bài thơ dễ hiểu nhưng dịch cho hay, cho toát lên cái thần thái như bản dịch của Huy Cận là rất khó. Phải hiểu phong cách thơ, hiểu con người nhà thơ mới có thể có chữ “đòi” mang sắc thái dân dã, suồng sã chỉ có ở những người bạn thân tình, tri âm, tri kỷ. Thay chữ này bằng một chữ khác (xin, đọc), dù đồng nghĩa cũng không thể giữ được mối quan hệ thân mật người –trăng như vốn có.

N.C

 


[1]Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996-2000, tập3, tr 241

[2]Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996-2000, tập 6, tr 19

[3]. Nhiều tác giả - Bác Hồ ở Việt Bắc - Nxb Chính trị Quốc gia, 2011.tr 355.