Chủ Nhật, 02/11/2025 00:31

“Trường ca” thời máu lửa

Vào bộ đội, dẫu cuộc sống công tác và chiến đấu bề bộn, đầy gian khổ nhưng Lê Đình Nghinh vẫn kiên trì ghi lại... (NGUYỄN TIẾN NÊN)

. NGUYỄN TIẾN NÊN
 

Trường Ca - đó là cuốn nhật kí thời chiến, bút tích còn lại của liệt sĩ Lê Đình Nghinh, bí danh Lê Hồng Anh (1945 - 1969). Lí giải vì sao cuốn nhật kí mang tên này, trang 42 ghi ngày 8/6/1966 anh “tiết lộ”: Nếu ai có trải qua cuộc sống trong quân đội và được trực tiếp trong cuộc chiến tranh thì mới chứng minh được một cách hùng hồn rằng: Đời là một bản trường ca. Khi lên bổng xuống trầm. Khi lên ghềnh xuống thác. Khi sôi nổi dập dồn. Khi du dương êm dịu… Chứ cuộc sống không phải là nước chảy bèo trôi, xuôi buồm thuận gió. Sinh năm 1945 ở thôn Nam Lãnh, xã Quảng Phú, huyện Quảng Trạch (Quảng Bình). Năm 1952, học lớp 2 anh phải nghỉ học để đi ở thuê, 2 năm sau mới có điều kiện đi học trở lại. Năm 1962 anh được Bộ Giáo dục tặng bằng khen về kết quả kì thi tốt nghiệp cấp III và vào học trường Sư phạm 10+2 tại huyện Bố Trạch (trường đào tạo giáo viên cấp tốc của tỉnh Quảng Bình). Ra trường, thầy giáo trẻ Lê Đình Nghinh về làm giáo viên tại trường cấp II xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch. Lúc này, cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân, hải quân của giặc Mĩ ra miền Bắc ngày càng leo thang ác liệt; ý thức nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc thân yêu, tháng 3/1965 người thầy trẻ quyết định tạm chia tay các em học sinh thân yêu, xếp giáo án lên đường nhập ngũ. Anh được biên chế về Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, Binh trạm 31, Bộ Tư lệnh 559, với nhiệm vụ tổ chức đánh địch, chia lửa cho các đơn vị hoạt động ngay trên đất lửa Quảng Bình.

Trang bìa cuốn nhật ký Trường ca

Vào bộ đội, dẫu cuộc sống công tác và chiến đấu bề bộn, đầy gian khổ nhưng Lê Đình Nghinh vẫn kiên trì ghi lại (phần nào) thực tế khốc liệt của cuộc chiến tranh và nội tâm của mình về những tháng năm được sống, công tác và chiến đấu tại các địa phương thuộc thị xã Đồng Hới, Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy. Trang viết đầu tiên trong cuốn nhật kí Trường Ca của anh ghi ngày 1/1/1966; trang cuối ghi lúc 12 giờ 15 phút ngày 7/6/1968 ngay trên trận địa phòng không Tân Thịnh, xã Tân Thủy, huyện Lệ Thủy. Được về thăm gia đình và quê hương trước khi nhận nhiệm vụ mới, Lê Đình Nghinh đã gửi lại cuốn nhật kí cho anh trai mình là Lê Văn Ngộ, lúc này là giáo viên trường Tiểu học xã Quảng Đông, Quảng Trạch nhờ cất giữ. Đơn vị anh được điều động tăng cường vào sâu cùng quân dân Vĩnh Linh chia lửa cho chiến trường Trị Thiên - Huế. Đêm 29/4/1969, trong lúc chiến đấu anh bị thương nặng và đã anh dũng hi sinh. Sau chiến tranh, phần mộ anh được gia đình, Ban Liên lạc cựu binh D14 và Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Quảng Trạch, tổ chức cất bốc đưa về quê hương tại Nghĩa trang liệt sĩ quê nhà, xã Quảng Phú, Quảng Trạch.

Từ khi anh gấp gáp trở lại đơn vị và đi sâu vào tuyến lửa, quê hương anh vừa tiêu điều do bom đạn của kẻ thù vừa trải qua nhiều thiên tai lụt bão. Tuy nhiên, cuốn nhật kí vẫn được gia đình giữ gìn cẩn thận. Hơn 55 năm qua, họ luôn coi đó là hiện vật quý để giáo dục các thế hệ con cháu trong dòng họ. Chúng tôi may mắn được gặp anh trai của liệt sĩ, ông Lê Văn Ngộ, hiện nghỉ hưu tại thôn Nam Lãnh, xã Quảng Phú, ông cũng là người thầy năm nào từng dạy dỗ chúng tôi, nể tình thầy trò, bồi hồi, xúc động, lần mở tới hàng chục lớp túi nilon trao cho tôi cuốn nhật kí Trường Ca của liệt sĩ Lê Đình Nghinh. Theo ông, đây là tất cả những gì còn lại duy nhất của em trai ông, ngoài ra liệt sĩ không để lại được di ảnh hay một kỉ vật nào khác.

Đón cuốn sổ bìa cứng khá dày từ tay thầy giáo cũ, tôi xúc động lật mở ngắm nghía từng trang viết. Cũng như nhiều thanh niên khác thời kì 1960 - 1970, anh dành 19 trang đầu để ghi lại một số lời trích của V.I. Lê-nin, M. Gooc-ki, Hồ Chủ tịch… và một số bài thơ anh viết mừng xuân. Bắt đầu phần nhật kí anh ghi ngày 1/1/1966, đó là một ngày đơn vị đi cấy lúa giúp dân, gió rét, ruộng sâu nhưng mọi người vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Đến ngày 12/1/1966 anh viết: Thế là hôm nay lại chuyển qua đơn vị mới, qua đây phải trực tiếp với chiến đấu nhiều hơn, có nhiều thử thách hơn nên bản thân phải phấn đấu nhiều hơn nữa mới làm tròn trách nhiệm của người chiến sĩ cách mạng, đó là chưa nói đến trách nhiệm của một người đoàn viên.

Ngày 25/3, trong khí thế kỉ niệm ngày thành lập Đoàn, anh viết: Đã là thanh niên sống trong xã hội Việt Nam thì phải làm gì cho xứng đáng với truyền thống bất khuất của Lý Tự Trọng, của Nguyễn Văn Trỗi. Có nhiều lúc Lê Đình Nghinh ghi nhật kí bằng những vần thơ đầy cảm xúc: Ra đi lòng lại dặn lòng/ Chung tay xẻ núi ngăn sông khó gì/ Đường dài Đảng dẫn ta đi/ Ngày xưa sướng khổ gian nguy cũng từng/ Đã quen kết bạn núi rừng/ Đất trời đâu cũng quê hương ruộng đồng/ Ra đi lòng lại dặn lòng/ Trước sau giữ vững hoa hồng bạn ơi! (ngày 19/5/1966). Cùng với tình yêu quê hương, đất nước, người chiến sĩ còn nuôi những ước mơ dung dị, cao đẹp về tình mẹ. ƯỚC MƠ: Vui sao chiến thắng trở về/ Tay con mừng rỡ ôm ghì mẹ yêu/ Ước mơ đẹp biết bao nhiêu/ Nhưng đang chinh chiến còn nhiều gian truân... (ngày 25/5/1966). Những đợt oanh tạc dã man của máy bay Mĩ xuống làng xóm, quê hương càng làm cho anh sục sôi ý chí căm thù và niềm lạc quan của người lính được thể hiện qua những dòng ghi ngày 1/6/1966: Trong bão lửa quê ta càng đẹp/ Dù lửa bom cháy sém bờ tre/ Dù chúng dội hàng ngàn tấn thép/ Từng tiếng gà gọi ổ ta nghe… Tiếp đến, ngày 9/6/1966 cùng mạch nguồn cảm xúc về quê hương, anh xót xa và nung nấu căm hờn khi chứng kiến giặc Mĩ dội bom xuống thị xã Đồng Hới, những cây dừa “kết nghĩa” táp túa cháy sém, nham nhở vết bom: Hôm nay giặc Mĩ lại điên rồ thả bom xuống thị xã Đồng Hải, những cây dừa Trị Thiên vẫn xanh tươi, vươn lên trong lửa đạn giờ đây chúng nó cũng phá luôn. Hận này ắt không quên được! Và, trong đau đớn anh đã bật lên nức nở: Rừng dừa ơi! Quê hương tôi oanh liệt/ Mỗi gốc cây ta khắc một căm hờn/ Từng chiếc lá giặc ghi bao tội ác/ Đang cất cao lời mẹ sáng như gươm. Một trưa hè bên mâm pháo trên đỉnh núi Ba Rền, nhìn những làng quê bị lũ giặc trời Mĩ tàn phá, lòng anh thêm sôi sục: Ngày hôm nay chúng nó đến 4 lần ném bom xuống làng quê, lửa càng cháy thì tim tôi càng sục sôi… tôi phải diệt bằng được chúng nó để trả thù cho nhân dân Bố Trạch… (ngày 24/6/1966). Lòng căm thù của người lính được dồn nén lại qua thời gian và rồi ngày 2/5/1967: Hướng 41 máy bay bổ nhào. Bắn! Lưới lửa vây lấy con thiêu thân F4H… Từ ngày đó địch tăng cường oanh tạc, các trận chiến đấu với chúng xảy ra liên tiếp. Nhật kí ngày 4/5/1967 anh ghi lại như một kỉ niệm khó quên: BỮA CƠM BỎ DỞ: Nếu như mình không nhanh một tí, thì chắc khi chiếc máy bay bay qua trận địa bọn mình mới biết. Mình mới cầm đôi đũa và miếng cơm vào miệng thì phát hiện được máy bay vào gần trận địa, mình quẳng bát xuống, không kịp nuốt cơm, vào chiến đấu ngay. Nó vào đúng tầm rồi. Bắn! Loạt đạn phủ đầu của bọn mình làm nó lúng túng. Nó bay vào một đoạn nữa súng cao xạ bắn lên tới tấp vây lấy chiếc máy bay, nó hoảng quá, trúng đạn rồi…! Nhật kí ngày 20/5/1967 anh thể hiện sự hồi hộp vui sướng khi được cấp trên khen đúng vào dịp mừng thọ Bác Hồ: Tối hôm qua làm lễ kỉ niệm mừng thọ Bác 77 tuổi, mình hồi hộp quá khi nhận Giấy khen của Tỉnh đội. Cảm động hơn, khi được tin em gái hi sinh ở quê, lòng căm thù được anh nén vào trang nhật kí: Tự hào về đứa em đã hi sinh, tôi quyết trả thù! Hận thù chuốt dãy Trường Sơn sắc nhọn/ Triệu mũi lao diệt Mĩ có thêm tôi/ Miền Nam ta không tiếc máu lâu rồi/ Dẫu 5 - 10 - 20 năm hơn nữa/ Vẫn một lòng theo Đảng diệt xâm lăng (ngày 24/11/1967). Về Liên Thủy sau đêm máy bay Mĩ đánh phá, anh đau đớn viết lên những vần thơ cắt cứa: Ôi những đứa em sắp sửa chào đời/ Chưa thấy mẹ đã vào nằm đáy mộ/ Bao mẹ hiền chết cùng con nhỏ/ Máu cha anh nhuộm đỏ cửa hầm/ Cả quê hương lại rộn rã lên đường/ Không có gì cản được sức ta vươn/ Bởi chân lí trong lòng dân có Đảng (ngày 8/1/1968)…

Với độ dày gần 245 trang, Trường Ca chứa đầy tình cảm cách mạng và hoài bão của tuổi trẻ. Như một bức tranh thực tế về cuộc sống công tác, chiến đấu, học tập của người lính trong thời chiến. Cả những tư duy, suy nghĩ hết sức chân thực đã cho thấy, động cơ của người viết không coi nhật kí là món đồ trang sức, mà là một người bạn tri kỉ, đồng hành trong những tháng năm khốc liệt của chiến tranh. Đất nước thống nhất tròn 50 năm, nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều cuốn nhật kí thời chiến của cán bộ, chiến sĩ ta, từng chiến đấu, hi sinh trong thời kì máu lửa đó chưa được phát hiện, công khai. Đó chẳng những là bảo vật đối với người thân các liệt sĩ, điều lớn lao hơn, đó là vật chứng về một cuộc chiến chống ngoại xâm tàn khốc và ý chí, khát khao cống hiến giành độc lập tự do cho dân tộc của các thế hệ thanh niên Việt Nam, thật đáng trân trọng trong hành trình “Tiếp lửa truyền thống” cho tuổi trẻ hôm nay.

N.T.N