Thứ Năm, 24/10/2019 09:29

Từ bờ bên kia

Gần một năm nay, chiều nào Job cũng dẫn cô con gái bé bỏng ra vịnh New York ngắm tượng Nữ thần Tự Do. Nơi đây, anh từng chụp nhiều bức ảnh khi bay trên chiếc Hughes OH-6 Cayuse để lấy điểm tuyển mộ phóng viên chiến trường.

.Truyện ngắn dự thi. LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Gần một năm nay, chiều nào Job cũng dẫn cô con gái bé bỏng ra vịnh New York ngắm tượng Nữ thần Tự Do. Nơi đây, anh từng chụp nhiều bức ảnh khi bay trên chiếc Hughes OH-6 Cayuse để lấy điểm tuyển mộ phóng viên chiến trường. Giờ đây, anh lặng buồn nhìn ra biển thẳm, về hướng đất nước Việt Nam xa xôi. Anh lục trong túi quần hộp ra một viên bi ve bằng thủy tinh, trong lòng pha màu đỏ như ngọn lửa. Job đưa nó lên cao về hướng mặt trời, chăm chú nhìn, dường như có cả một khu làng xám khói hiển hiện trong đó.

Trên tàu điện từ vịnh về nhà, Job thoáng thấy những người hùng từ chiến trường Việt Nam xa xôi cầm súng, chào danh dự trên những tấm áp phích ngay gần cửa ra vào ga. Một số tấm bị xé góc, rách mặt rách mày, súng ống những người lính không nhận ra hình dạng. Có bức được ai đó viết đè lên: “Hãy về đi!”. Job im lặng lắng nghe hai chàng sinh viên nói chuyện. “Tớ muốn qua đấy một lần!”. Cậu kia bĩu môi: “Đừng mơ mộng nữa Kil à. Tuần nào trên đường phố New York cũng đầy khẩu hiệu đả đảo cuộc chiến tranh bẩn thỉu đó”.

Về đến nhà, bữa tối đã được Lucy, vợ anh bày sẵn. “Anh không định bỏ thói quen mất nhiều thời gian ấy sao?”, vợ anh nhỏ nhẹ hỏi chồng. “Nó là một phần cuộc sống của anh”. “Để làm gì cơ chứ?”. “Anh còn biết làm gì hơn?”. Job trầm ngâm. Lucy tỏ vẻ khó chịu: “Anh sẽ chẳng bao giờ chôn được quá khứ. Anh đã làm gì, thấy gì ở đó? Sao anh lại im lặng? Giá như anh đừng sang bên đó. Và giá như trước khi lấy em anh đừng bận tâm với những chiếc máy ảnh”.

Job bỏ dở bữa ăn ra hiên nhà ngắm cơn mưa mùa hè bất chợt đổ xuống. Anh lại lấy viên bi ve mang từ Việt Nam về trân trân trong lòng bàn tay, gõ cộp cộp lên mặt bàn hòa theo nhịp mưa. Tiếng mưa lóc bóc trên mái, ngả nghiêng trên những tán sồi già trước nhà rồi chảy thành từng dòng nhỏ trên mặt sân đầy cỏ, quanh những bồn hoa violet mới chớm nở. Tiếng mưa quen quá và cả cái mùi hơi đất khô khốc bốc lên gợi nhớ những ngày còn ở vùng chiến sự nắng cháy.

Lần đầu tiên ra chiến trường, cơn mưa nhiệt đới tầm tã nửa ngày trời làm hạ nhiệt đáng kể thứ không khí hanh khô, nóng nảy đến bực bội của một tỉnh miền Trung nước Việt. Anh ngồi dưới tấm bạt ponchor, hút thuốc và nhìn về vùng núi phía tây đầy mưa mù, nơi được cho là đang có những hoạt động dữ dội của các đoàn quân cộng sản. Nhiều ngày qua, đại đội Charlie liên tục hành quân, càn quét vào những vùng nghi ngờ có Việt cộng hoạt động được đánh dấu bằng những chấm hồng trên bản đồ chiến dịch. Ít nhất hai căn cứ không bóng người với hàng chục mái tranh đã bị đốt trụi, ba hầm trú ẩn đã bị điểm nhưng không có một vi-xi nào cả. Chỉ huy trưởng đại đội Charlie là đại úy Ernest Medina, sinh năm 1936, tròn 32 tuổi hôm Job trình diện đang điên tiết với các bản báo cáo trinh sát. “Tao phải tiêu diệt được trăm tên vi-xi trong tháng này”. Job hỏi: “Chúng ta phải làm như vậy sao?”. Medina nghiến răng với chiến hữu mới nhập đội: “Phải, mày phải sớm biết điều đó. Charlie của chúng ta phải quét cho kì hết đám vi-xi ngoan cố chết tiệt kia. Hãy cố chụp những bức ảnh chiến công của chúng tao, những bức ảnh để đời vào”. Bộ mặt dữ tợn của Medina khiến người đối diện phải khiếp sợ. Ít ra trong Charlie, mệnh lệnh của hắn không ai dám cưỡng.

Nhiều lần hành quân cùng hắn, Job hỏi vì sao anh thù vi-xi như thế? Medina lằm bằm trong miệng không nghe thấy gì. Mãi sau hắn rống lên như một con sói. “Mày có biết tiểu đội đặc nhiệm của tao đã bị giết sạch ở Ba Gia bằng dao cắt chuối và chông tre không. Bọn nó giết sạch chỉ trong một đêm, khi chúng tao đi ngủ trong ngày hành quân cuối cùng. Những chàng trai mới tinh, từ Ohio, Arizona, Virginia… chết tức tưởi vì bàn tay cộng sản khi họ bước vào cuộc chiến chưa được một tháng”. Job định tranh cãi rằng vụ đó anh biết, tiểu đội kia đã quá lạm dụng súng ống khi thảm sát hai mươi ba phụ nữ và trẻ em không tấc sắt sợ sệt trốn trong hầm. Nhưng Medina quay phắt đi chỗ khác, rút súng bắn chỉ thiên trong khi miệng nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đám cỏ bị đốt cháy khét.

*

* *

Sau ngày kinh hoàng xảy ra, Job thường mơ về Charlie, bao giờ cũng có bộ mặt Medina với lòng trắng con mắt lồi ra, lia đại liên vô tội vạ về phía những người đàn bà tóc dài xơ xác và đám trẻ con mình trần. Job đứng bên, với hai bàn tay đỏ lòm, ống kính máy ảnh và khuôn mặt đầy máu từ những xác chết bắn tung tóe vào. Anh la lên, bật dậy ra khỏi phòng châm thuốc mù trời cho đến sáng.

Lucy chưa cảm nhận được sự đau khổ của chồng lớn đến mức nào và cô không giải thích được vì sao chồng cô lại thay đổi nhiều như thế. Cuộc sống trên phố Wall quá bận rộn, do tình cờ cô đọc được dăm bài báo về sự thối tha của lính Mĩ ở cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng cô tin Job, một phóng viên chiến trường khó có thể dính dáng đến một tội ác ghê tởm nào đó. “Anh làm ơn, làm ơn nói cho em nghe!”, Lucy muốn chia sẻ, hâm nóng lại tình cảm vợ chồng gần như nguội lạnh. Mọi cố gắng của mẹ con cô đều thất bại và Job chưa hề đụng đến cô từ khi anh đột ngột trở về từ Việt Nam.

Hôm nay, Lucy về nhà thấy Job đang cầm tờ Washington Post. Tờ báo đưa tin về hàng người tập trung tại đài tưởng niệm Lincoln, dọc bờ hồ trước toà nhà Quốc hội Mĩ. Có dân hippie, các bà nội trợ, cựu chiến binh nhưng phần đông là sinh viên, học sinh yêu cầu chính phủ rút quân khỏi Việt Nam. Hơn năm mươi nghìn người biểu tình hướng về phía Lầu Năm Góc làm nước Mĩ náo động. Cảnh sát dùng hơi cay, khiên, thậm chí cả báng súng để đẩy lui đám đông. Job biết những chuyện đó và trông anh ngày càng sầu khổ. Nỗi buồn khô héo dường như hút cạn nguồn sống mỏi mòn đến khó hiểu của anh.

Job thức trắng mỗi đêm. Rồi một đêm nọ, khi anh lăn hòn bi ve trong tay, ánh đỏ trong lòng bi như rực lên. Job cảm nhận từng hơi nóng của làng Hồng còn lại, những hơi thở đứt quãng và cả nước mắt hận thù lẩn khuất đâu đây. Anh để tâm trí mình treo lên ngọn tre làng ấy, thấy từng tốp lính hùng hổ như bầy sói xả súng trên cánh đồng khô cháy. Hòn bi ve rời khỏi tay, rơi xuống nền nhà. Viên bi lăn khắp phòng cho đến khi nó ngừng lại dưới chân ghế sofa, Job dõi mắt theo và khi đưa mắt nhìn lên, anh bắt gặp cậu bé Việt Nam nhỏ xíu ngồi thu lu, nhìn mình.

Cậu ngồi đấy hằng đêm trên chiếc ghế sofa da nâu, với bộ mặt nhuốm màu buồn bã, hận thù. Khi Job trở dậy, cậu bắt đầu câu chuyện của mình. Job đến bên cậu, châm thuốc rít và lắng nghe tiếng nói tưởng chừng chìm vào quên lãng. Cậu tên là Đẩu, một cậu bé vừa tròn mười một tuổi. Cậu nói, cháu sẽ không đòi lại hòn bi ve của cháu đâu. Giờ cháu không còn bạn để chơi nữa. Và cậu kể tiếp. Đẩu không quên những buổi sáng nắng tràn ngập thôn xóm, nhuộm vàng bờ giậu thưa. Những bông bìm bịp màu tím sẫm hân hoan, hùa theo bước chân của đám trẻ nít làng. Đẩu không quên đàn trâu hiền lành đi trên con đường sình ngập lấm đen ra đồng. Cứ mỗi sáng nhìn cặp sừng ngúc ngắc của chúng, tiếng cười sảng khoái tức thì nở trên môi lũ mục đồng thôn dã. Đẩu không quên những tấm thân trần vạm vỡ của cha chú cày bừa cuốc xới trên cánh đồng làng xanh mướt màu lúa thơm. Đẩu không quên các mẹ các chị cắp giỏ đi chợ xa, những giọng nói râm ran lan xa theo gió. Và không quên đám trẻ gầy tong teo ngồi đánh bi dưới tán tre già. Những buổi sáng trong lặng ấy đã chết tức tưởi trong cậu, để bây giờ quay về như một hồi ức trắng.

Hồi đó cháu ốm giơ xương, mẹ thường gọi dậy vào lúc năm giờ sáng, bao giờ cũng là: “Cu Đẩu ơi, dậy mở cửa chuồng trâu cho cha rồi ôm về bó rơm để mẹ nấu cơm ăn. Cu Đẩu ngoan, cu Đẩu ngoan!”. Cháu dụi mắt cho quên đi giấc mơ đêm qua, rồi lồm cồm bò dậy ra bể rửa mặt. Chú không biết là những buổi sáng ấy mặt đất thơm và những ngọn cỏ đáng yêu như thế nào đâu. Đất đẫm hương đêm dịu ướt, của cỏ dại và vô vàn xác hoa lộc vừng thắm đỏ. Cháu hít thật sâu, căng tràn lồng ngực, như thể ăn một bữa sáng ngon lành.

Hôm qua, cháu dắt Mẹp đi ăn đồng xa, tới tận Cổ Lũy, cùng chúng bạn bẻ bông súng về nấu canh, giờ người còn mệt. Cháu nói với cha không dắt trâu ra đồng cho cha được, thôi cứ để Mẹp đó, trưa con dắt sau. Mẹ nghe thế xoa đầu: “Bữa sau cho ăn đồng gần thôi, cỏ còn xanh nõn đồng nhà thế kia”. Cháu dạ vâng rồi ra bếp ngồi bệt ăn cơm với cha mẹ. Cha nói: “Hôm nay cho Đẩu ở nhà chơi, để trâu cha dắt”. Cháu nghe như mở cờ trong bụng, liền chống đũa hỏi: “Bao giờ anh Tánh mua kẹo cau về cho con?”. Cha mẹ buồn, không đáp lại. Ăn xong mẹ bảo lên chợ bán nốt chỗ lạc mới nhổ. Cháu đâu ngờ đó là bữa cơm cuối cùng của gia đình mình. Cháu ở nhà một mình, buồn quá chạy ra đầu làng chơi. Trời chưa đổ nắng, sương mai còn đọng trên cành xoan. Cháu tung tăng ra ngõ, gió ngoài đồng thổi xàn xạt tóc đen...

Minh họa: Nguyễn Vân Chung

Đêm sau, Job hứng thú hơn với cậu bé. Job không im lặng mà tham gia vào câu chuyện. Người ta đã bôi đỏ ngôi làng bé nhỏ của cháu lên bản đồ hành quân của lực lượng đặc nhiệm Barker. Quân đội chú gọi là Pinkville. Làng Hồng. Hồi đó, những tay chỉ huy phấn khởi vì chiến tích nay mai, huân chương và quân hàm vượt bậc khi giải quyết các điểm Pinkville ấy. Đại uý Medina, người chỉ huy của chú có mệnh danh là “chó điên”. Chú phải nói thêm, hắn là người duy nhất còn sống sót sau vụ tiểu đội đặc nhiệm bị tập kích. Và thêm một gã chỉ huy trung đội 1, trung úy Calley, với bản mặt khó ưa, đầy sát khí được mệnh danh là Calley “cau có”. Hắn có hai người bạn thân cùng đến Việt Nam, không may là một người tử trận tại Củ Chi, người khác mất tích trong một lần hành quân ra Quảng Trị. Họ trực tiếp chỉ huy bọn chú vào chiến dịch Sơn Mỹ. Tin tình báo cung cấp rằng tiểu đoàn 48 của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ẩn náu tại làng cháu. Hôm sau, đại đội Charlie của chú được không vận bằng trực thăng Bell UH-1D Iroquois đến địa điểm tác chiến. Phải nói rằng ngày đó chú rất hồi hộp khi được giao nhiệm vụ đầy thử thách như thế.

Cháu cũng nhớ là hôm đó một mình đi thơ thẩn trong ngõ. Gió thổi bụi trắng lao xao. Cháu nhìn qua núi Voi. Ngọn núi mỗi mùa hè cháu đều cùng chúng bạn lên thả diều, hái sim vào những ngày mát. Chú không biết trên đỉnh ấy đẹp thế nào đâu, sẽ nhìn được cả một vùng đồng bằng bát ngát lúa xanh, những ô ruộng ngang dọc như bàn cờ, những lối mòn đưa về các xóm thôn lẩn khuất sau những hàng cây phi lao xanh rì. Đó là Sơn Mỹ, làng cháu. Đi về hướng đông biển xanh ngăn ngắt, sóng xõa lên cát vàng Mỹ Khê. Nhưng rồi người Mĩ các chú đến, chiếm núi Voi, xây lô cốt, đặt pháo trấn thủ, xua đám trẻ nghèo chúng cháu không được lên thả diều. Cháu và chúng bạn chỉ còn thèm thuồng nhìn núi từ cánh đồng mải miết lưng trâu.

Nhưng chú ơi, việc đó cũng không kinh khủng bằng hôm các chú đổ bộ vào làng cháu. Cháu sẽ kể cho chú nghe cháu đã chết như thế nào.

Ầm! Ầm!

Pháo dội, mặt đất rung chuyển dữ dội, những tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Tiếng gà vịt kêu, tiếng người la khóc thất thanh. Bước chân cháu khựng lại. Ông Bốn nhà bên chạy ra, tóm lấy cháu lôi xuống hầm. “Chúng nó đi càn rồi! Con mau vào đây cho an toàn”. Mặt ông nhăn nhúm. Cháu leo xuống hầm, trong đó có hơn chục người là con cái, hàng xóm sát nhà ông. Mặt ai cũng lo sợ. Lúc đó, cháu chợt nhớ đến cha còn ở ngoài đồng, mẹ còn đâu đó trên con đường ra chợ và cả con Mẹp tội nghiệp. Có tiếng trực thăng rền rĩ quần đảo nhiều vòng, tới tấp khạc đạn xuống những mái nhà. Thêm mấy tốp trực thăng nữa bay đến, đậu ngoài đồng xa, đổ hàng trăm lính súng ống đầy mình lầm lũi tiến vào làng.

Đại đội Charlie của chú phải không?

Hôm đó, họ như loài quỷ khát máu, chỉ chực lấy mạng kẻ khác. Cháu muốn chạy đi báo cho cha biết, cháu muốn chạy tới đầu làng đón mẹ về. Cha ơi! Mẹ ơi! Cháu nhót chân lên, ông Bốn với mấy cô lớn tuổi kéo lại. “Ấy, đừng cháu ơi, ra đó nguy hiểm lắm”. Rồi có tiếng người xi lô xi la bên ngoài, tiếng bước chân gần gận. Cháu vùng khỏi tay ông Bốn chui lên, băng qua vườn chuối. Thoáng thấy những bóng quân phục xanh, mũ nồi, súng còn vương khói xông xáo băng vào thôn. Cháu vấp gốc chuối già, ngã xoạch xuống nền đất ướt. Mắt cháu nằm ngang tầm ngọn cỏ trai. Từ đó, cháu thấy lính Mĩ các chú chia thành nhiều tốp, sục đến từng nhà, tìm đến từng hầm. Họ sục vào nhà ông Bốn, chỉ cách cháu mấy bước chân thôi chú à, lúc đó trong hầm nhà ông có tới mười lăm người đang trú ẩn. Lính Mĩ kéo đến chọc hầm, tám người trong hầm bước ra, có cả ông Bốn, hai tay giơ lên đầu. “Tôi không phải là Việt cộng”, ông Bốn cố bình tĩnh, nói to, nhưng mặt ông không giấu được nỗi hãi hùng đến tội nghiệp. Lính Mĩ chẳng nói chẳng rằng xả súng bắn tất, ông Bốn chết tươi ngay băng đạn đầu tiên. Họ ngã gục, xác chồng lên nhau. Lính Mĩ tiếp tục đặt mìn giật tung hầm, giết nốt những người còn lại. Chú chắc cũng hình dung được những người hàng xóm của cháu đã nát nhừ thế nào. Cháu sợ, sợ lắm chú à. Cháu muốn khóc nhưng sợ quá không khóc được. Cháu muốn gọi cha, gọi mẹ nhưng sợ lính Mĩ các chú nghe được.

Ôi, chú ơi, những tiếng nổ ấy ngày nay thỉnh thoảng vang lên choáng váng cả tâm trí cháu. Có lẽ chú cũng như cháu, nhiều đêm vò đầu, bứt tóc để quên nó. Chú nhìn vợ, nhìn con trong đêm, muốn dìm quên tất cả những gì thuộc về đớn đau năm ấy nhưng vẫn chưa quên được phải không chú.

*

* *

Vết thương trong lòng càng ngày càng há miệng rộng. Vào cái ngày tròn một năm của sự kiện ngoài sức tưởng tượng ấy, mọi thứ vẫn im lặng. Job không bao giờ đụng đến hai chiếc máy ảnh hiệu Nikon và Leica, những vật bất li thân anh hằng trân quý như mạng sống của mình. Thỉnh thoảng, Medina gọi điện từ một căn cứ nào đó. Bây giờ hắn đã lên chức tiểu đoàn trưởng, vẫn giọng chó điên xấc xược năm nào: “Mày hãy quên những chuyện đó đi nếu muốn sống tiếp”. Giọng hắn vẫn chua chát, đầy sát khí như khi hắn ra lệnh cho các toán quân của Charlie tấn công Sơn Mỹ. “Giết! Giết hết!”. Không cần nói nhiều, ở đâu có Việt cộng là bắn bỏ, ai theo Việt cộng cũng bắn bỏ, bất kể người già, phụ nữ, trẻ em. Lời tuyên bố của hắn vượt ngoài giới hạn của một quân nhân. Medina nói rằng, nuôi giấu Việt cộng cũng có tội như Việt cộng. Lũ trẻ có máu Việt cộng rồi cũng sẽ thành Việt cộng. Tao không muốn những anh em của tao phải chết ngu, chết dại dưới tay Việt cộng.

Liên tiếp những tháng dài, nhiều cuộc gọi nặc danh dọa giết Job và cả gia đình anh. Lucy đau khổ và lo sợ không dám đi ra đường suốt một tuần lễ. “Anh đã làm gì ở Việt Nam? Làm ơn nói em nghe đi. Em khổ lắm rồi”. Nhưng Job vẫn im lặng, anh không làm sao kể được sự thật kinh hoàng đó. Cứ độ vài ngày, một vài xác động vật ném vào nhà anh. Những con vật chết không toàn thây nằm trên cửa nhà vào mỗi buổi sáng, bầy nhầy như những xác người ở Sơn Mỹ. Job nôn thốc nôn tháo. Cuối tuần đó, anh tống vào mồm một lọ thuốc ngủ melatonin với những lời ân hận.

Anh đã thấy tất cả, bên kia địa cầu, nơi đồng lúa chín vàng, nơi có những ngọn cỏ trai đẫm sương, long lanh trong nắng sớm. Cánh tím của hoa dại đính lên mắt anh những mong ước lớn lao. Nhưng anh và quân đội Mĩ đã phá những buổi chiều yên ả có cánh diều cao vút trên bầu trời xanh, làm nát tan cánh đồng vàng và những mái ấm hạnh phúc. Cậu bé ấy đã nói chuyện với anh hằng đêm. Năm trăm lẻ bốn thường dân đã bị giết một cách dã man. Họ là đàn bà, trẻ con, người già, không phải là cộng sản, họ không vũ trang, họ nghèo đói, chỉ có da và xương. Anh không còn con đường nào khác!

Xin lỗi Lucy, xin lỗi con gái.

Job nằm trong bệnh viện và cậu bé đến lay anh dậy.

Chú ơi, dậy đi. Tại sao chú phải làm thế?

Mà chú có chụp được bức ảnh nào về một tốp lính Mĩ kéo vào nhà thằng Đức cùng tuổi cháu. Nó dại dột mở nắp hầm chạy ra liền bị bắn chết khi miệng còn ngậm đầy cơm trắng. Thằng Đức đang ăn sáng với mẹ. Hầm nhà nó cũng bị họ đặt mìn giật tung giết cả thảy bảy người, không một ai toàn thây. Thằng Đức rất tốt với cháu, thường chia cho cháu những củ khoai lang ngọt nhất những ngày chăn trâu đồng xa. Cháu vẫn còn giữ quả bầu hồ lô hai đứa ăn trộm ngoài Cổ Lũy. Đó là đứa bạn đầu tiên của cháu bị lính Mĩ các chú giết.

Khi chú vào làng có thấy nhiều bàn chân đầy máu dọc đường đi. Nghe những tiếng la thất thanh, tiếng van lơn thống thiết xin tha mạng, xin đừng giết. Súng nổ. Tiếng thét. Tiếng khóc. Tiếng cười quặn lên. Cháu thì thấy cây bông gòn đầu làng bông nhuộm đỏ đường đất. Quanh đó, thúng mủng lấp đè lên những xác người. Lính Mĩ đốt nhà lửa khói mịt mù. Cháu sợ quá, khóc hưng hức, không có ai ôm cháu dỗ dành, vuốt vuốt má cháu như khi bé nữa. Và kia thằng Tọp đang dắt con trâu còm nhà nó ra đồng. Một tràng đạn liên thanh xả về phía nó. Con trâu trúng đạn, rống lên ngã vật ra, máu phun ồng ộc. Nó đứng bên đường với vết đạn trúng ở cánh tay, tay còn lại ôm lấy chỗ bị thương. Máu chảy thành dòng nhỏ giữa những kẽ tay. Nó đứng trân ra đó với đôi mắt mở to nhìn chằm chằm chung quanh và dường như không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Cháu van xin trong ý nghĩ, chạy đi Tọp ơi, chạy đi. Đến khi Tọp hoảng hốt nhận ra một gã tóc vàng với hàm răng vàng xuộm vì khói thuốc giương súng bắn nó, nó chạy. Gã lính bắn một phát. Trượt. Thằng Tọp vứt dây buộc trâu chạy về phía nhà. Gã bắn phát nữa. Lại trượt. Gã đang tàn nhẫn tập bắn súng với một cái bia sống. Thằng Tọp nghe tiếng súng vấp khuỵu xuống đường. Đám bạn đi theo gã cười ngất ngưởng. Gã điên máu chạy đến dựng cổ áo thằng Tọp dậy. Cháu thấy nó tái nhợt, sợ, nước đái chảy rỏng rỏng ra quần, ướt đôi chân bùn. Gã đó há miệng cười nham nhở, nói: “Ăn kẹo đồng nhé thằng vi-xi oắt con kia”. Óc thằng Tọp văng tung tóe trên con đường cỏ xanh. Trên thân xác nó, cháu chỉ thấy hai màu, màu trắng và màu đỏ.

Cùng lúc ấy một nòng sắt lạnh đã tì lên đầu cháu từ bao giờ. Bọn lính kéo cháu xềnh xệch khỏi bụi. Nhiều người bị lôi ra khỏi nhà, tất cả bị dẫn về phía mương nước. Cháu nhớ chú có chụp những bức ảnh ở mương nước phải không? Cháu và người làng đang ở trong máy ảnh của chú. Chú phải làm gì đó đi chứ! Chú ơi, dậy đi!

...

Job tỉnh dậy trong sự mừng rỡ của gia đình. “Anh đã ở đó. Anh là một trong số họ. Anh có tội như những người khác, Lucy à”. Vợ ôm Job vào lòng. “Anh là kẻ đầy tội lỗi, là quỷ Satan. Chúa trời nguyền rủa anh!”. Lucy bắt đầu hiểu câu chuyện của anh. Họ dành một tháng trời bên nhau, nói chuyện cùng nhau.

“Anh phải được rửa tội”, Lucy nói. Job gật đầu.

Ngày chủ nhật hôm sau, họ đến làm lễ tại nhà thờ thánh Paul.

Vị linh mục nhìn Job thông cảm: “Những người từ các cuộc chiến đã về với Chúa rất đông. Khi tin tưởng vào thượng trí của Người, anh chị em bước đi trong ánh sáng Chúa Kitô”.

Job cảm thấy sự gần gũi, máu đỏ của tội ác sẽ được rửa bằng nước thánh, bằng đức tin trong sạch, thánh thiện. Chúng ta hãy cầu xin tìm thấy nơi cộng đồng chúng ta sự đồng tâm và tinh thần bác ái dồi dào. Chúng con cầu xin Chúa. Job hiểu rằng trong buổi sơ khai của thế gian, trong chính nước hồng thủy, Chúa đã cho thấy hình ảnh ơn tái sinh, chấm dứt các tính mê nết xấu và khơi nguồn các nhân đức. Sau đó, vị linh mục yêu cầu Job lại bên bồn rửa tội. Bài thánh ca do những cậu bé con cất lên, ôm ấp linh hồn xa xót của anh vào lòng. Anh đặt đôi tay chéo trước ngực và để hai vị đạo hữu nhẹ nhàng nhúng anh vào bồn. Toàn bộ cơ thể Job ngập trong làn nước thơm.

Job nhắm mắt. Lạy Chúa lòng lành! Tha thứ cho con! Tha thứ cho những tội lỗi con gây ra! Vì cái ác che mờ lương tri, vì sự ngay thẳng bị nỗi sợ và thói vô cảm chiếm lĩnh! Nước thánh ấy thấm vào da thịt, thấm vào lương tâm Job. Trong màu nước xanh, anh thấy ánh sáng của Chúa, thấy những người vô tội Sơn Mỹ vây quanh chờ anh một câu trả lời cho sự thật. Cậu bé ấy nhìn Job, gương mặt ngập tràn niềm tin. Sau ngày hôm đó, Job như được phục sinh với nguồn sống mới, đồng hành cùng bước đi với Lucy trong trái tim một con người.

*

* *

Con ngủ rồi hả em? Ngồi lại đây để anh kể câu chuyện đang hành hạ anh mục ruỗng. Đã lâu rồi chúng mình không nói chuyện với nhau…

Thằng bé ấy run run đi trước họng súng mới nhả đạn còn nóng hổi dí vào lưng. Nó vừa thấy anh họ bị lính quây lại dưới mương nước. Nó chạy tới nép dưới cánh tay anh mình để được chở che. Nó sợ sệt nhìn quanh tìm cha mẹ. Mương nước đầy bùn, nhiều người đã bị dồn xuống, người đứng, người ngồi, mặt ai nấy trắng bệch. Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra, chiếc Nikon sẵn sàng làm nhiệm vụ. Medina xuất hiện ra hiệu bảo không cần đến, anh có thể nghỉ ngơi. Đôi mắt hắn vằn lên màu đỏ. Đó là mệnh lệnh. Khi tất cả đã đứng đầy mương nước, một khẩu đại liên được mang tới dí vào đám đông do chính tay trung úy “cau có” Calley tự mình bố trí. Hắn lẩm bẩm: “Will và Carl, tao trả thù cho tụi bây đây!”. Lính Mĩ vây xung quanh không một lối thoát. Anh có cảm giác ma quỷ ở rất gần, những Satan đầu có sừng, lưng có cánh vây quanh vỗ tay hoan hô bữa tiệc máu. Nhiều người chắp tay lạy lính Mĩ tha mạng. Họ lạy lia lịa, lạy trối chết. Nhiều phụ nữ nước mắt chảy ròng ròng van xin được sống. Cậu bé đó cũng lạy. Tha cho tôi! Tha cho tôi! Chúng tôi không có tội! Chúng tôi không phải Việt cộng. Nhưng gã Calley đứng cạnh khẩu đại liên ấy mặt lạnh tanh như quỷ dưới địa ngục lên. Hắn cười băng giá. Hắn chỉnh băng đạn, nhởn nhơ làm động tác xoay nòng thiện nghệ. “Tao trả thù cho tụi bây đây!”, hắn hét lên giữa những tiếng van xin yếu ớt. Chúng tôi không có tội! Tha cho tôi! Tành tành tành...

Tành tành tành tành tành tành...

Tành…

Súng nổ. Súng nổ rồi. Tiếng súng vang lên khiến anh giật mình. Anh phải làm điều gì đó, nhưng không kịp rồi. Không ai kịp lau nước mắt, không ai kịp nói lời trối trăn. Mặt trời rực đỏ trên đầu. Loạt đạn đầu bắn đi như mưa. Tiếng nổ rát mặt trời. Thân người đổ xuống như chuối. Tất cả đều chết, chết hết. Một em bé nhỏ xíu chỉ mặc một chiếc áo ngắn bò lê trên đống xác chết và nắm lấy bàn tay mẹ nó. Chân nó dính máu từ các xác chết, nó khóc lay lay bàn tay mẹ bất động. Nó trườn lên vén áo tìm bầu vú mẹ đã bị bắn nát. Một lính Mĩ quỳ xuống, nhằm đứa bé như một mục tiêu thú vị. Anh định nhảy vào ngăn nhưng hai gã khác đã giữ lấy vai. “Không phải việc của mày!”. Và rồi gã bắn ba loạt đạn vào đứa bé. Đoàng! Đoàng! Đoàng! Loạt đầu đẩy bật nó ra sau, loạt thứ hai hất nó tung lên, loạt thứ ba quật nó ngã sấp. Sau đó tên lính thản nhiên đứng dậy bước đi, bỏ lại em bé nằm trên xác mẹ. Calley cười khà khà thích thú.

Anh đã chết lúc đó, bộ não anh, thần kinh anh, trái tim anh đã chết từ lúc đó. Tành tành tành tành tành... Tiếng súng vang lên, mãi vang lên trên vùng đất chết chóc Sơn Mỹ. Anh phải chụp lại những tấm hình làm bằng chứng. Tiếng tách tách vang lên cho đến khi hết cả hai cuộn phim màu và đen trắng. Khắp nơi nồng nặc mùi máu tanh.

Im lặng.

Những cánh ruồi vo ve.

Anh quỳ xuống trên đất ướt. Nghe thấy tiếng rên bên dưới và chạy xuống tìm những người sống sót. Anh đã gặp cậu bé ấy dưới những xác người. Nó còn thở, tay cầm một hòn bi. Anh nghe tiếng trực thăng rất gần. Một làn đạn bắn xuống để ngăn lính Mĩ tràn vào giết thêm người dân vô tội. Sau này anh mới biết đó là chiếc trực thăng duy nhất không có hành vi thảm sát do phi công Thompson điều khiển để ngăn chặn sự giết chóc bừa bãi của Charlie. Họ hạ cánh cứu được mười mấy mạng người. Anh gửi cậu bé đầy máu cho họ. Cậu bé nhìn anh biết ơn và trao hòn bi ve lấm máu cho anh. Và bây giờ anh biết cậu bé Việt Nam ấy không qua khỏi. Đó là Đẩu.

Cuộc hành quân kết thúc thắng lợi, tổn thất duy nhất chỉ là một anh lính da đen tên Herbert Carter tự bắn vào chân mình để không phải tham gia vụ tàn sát. Giá như anh cũng làm thế…

...

Nhà bên mở băng nhạc có ca khúc The Times They Are A-Changin của Bob Dylan. Lời ca cất lên thê lương:

“Có một cuộc chiến ở ngoài kia

thật dữ dội

nó sẽ khiến những cánh cửa và bức tường ngôi nhà bạn

rung lên bần bật.

Job cảm giác người mình và cả ngôi nhà rung lên, rệu rã.

Lucy đặt tay lên má Job, che miệng anh lại. Job gục đầu vào vai Lucy. Cả hai vợ chồng cùng khóc. Anh thoáng thấy bóng cậu bé Đẩu ngoài ô cửa. Anh nghe giọng cậu. “Chú ơi! Cảm ơn chú đã cứu cháu dù cháu không còn cơ hội được sống”. Dòng hồi ức của anh đột ngột trở lại. Bờ vai ướt đẫm mồ hôi, anh bế cậu bé bước đi bỏ lại mương nước xác người đằng sau. Dọc đường ra, anh còn chứng kiến nhiều ngôi nhà bị quăng zippo lên mái tranh, thiêu rụi. Những gia đình bị lửa thiêu co quắp chân tay. Tất cả họ đều không phải là du kích hay Việt cộng.

*

* *

“Hôm nay, cựu binh cùng sinh viên tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở quảng trường New York đấy”.

Lucy trìu mến nhìn Job. Anh biết mình phải làm gì. Anh chờ đợi sức mạnh của cộng đồng. Và họ đi vào cuộc biểu tình, đứng trước cảnh sát, lính MP dày đặc. Chúng tôi phản đối chiến tranh Việt Nam. Quân đội Mĩ phải rút về nước. Một bà mẹ hét lên: “Tôi trao cho quân đội đứa con trai tốt chứ không phải là kẻ giết người”. Cảnh sát chĩa súng về phía họ. Lucy chuẩn bị cho Job một bó hoa. Anh bước lên và lần lượt đặt từng bông hoa vào nòng súng của cảnh sát đang nhắm về phía mình và mọi người. Những bông hoa màu đỏ, màu của yêu thương.

Job thấy mình đang sống lại, anh cần mọi người biết sự thật, nước Mĩ biết sự thật. Anh tỉnh táo kể câu chuyện của mình trước công luận. Những kí ức tanh ngộn của anh đầy máu và tiếng súng. Tất cả họ đến từ đại đội Charlie. Người ta huy động một lực lượng lớn của sư đoàn bộ binh America, gọi là lực lượng đặc nhiệm Barker, những kẻ làm nhiệm vụ đặc biệt, trang bị tận răng chỉ để đối đầu với người già, phụ nữ và trẻ em, những người vô tội. Họ dàn quân như sắp phải đụng đầu với một ổ kháng cự lớn kiểu như một tiểu đoàn chủ lực của Việt cộng. Nhưng không, không hề gặp một hỏa lực nào bắn trả lại. Vậy mà súng M.16 và cả súng phóng lựu M.79 đã nổ liên hồi để đáp trả lại những thường dân không một tấc sắt. Cụ già đứng giữa ruộng vẫy tay tỏ vẻ thân thiện, người giơ hai tay lên đầu, thiếu nữ mới lớn, phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh... tất cả đều thành bia sống, thành nạn nhân của cưỡng hiếp tập thể trả công cho những lớp huấn luyện đặc biệt tại Mĩ.

Một đêm lạnh, Job cuốc bộ một mình đến trụ sở của tạp chí Life. Anh thức trắng và đợi họ đến sáng. Anh cảm nhận được cậu bé Việt Nam đi theo mình, mỉm cười trong đêm tối. Lucy và con gái sẽ tự hào về anh. Còn anh, cảm thấy thất vọng trước chính những đồng đội của mình.

Vị tổng biên tập của Life cảm thấy sốc trước sáu mươi bức ảnh gồm bốn mươi bức ảnh màu bằng máy Nikon và hai mươi bức ảnh trắng đen bằng máy Leica nhuộm đầy máu và xác chết. “Lạy Chúa! Chuyện này thật ngoài sức tưởng tượng. Tôi chưa từng chứng kiến sự tàn khốc nào đến thế”. Đoạn ông quay sang: “Job, anh là con người của sự thật”. Ông tổng biên tập ôm chầm lấy anh. Những tội lỗi phải được kết thúc.

Job về nhà, anh viết bản tường trình dài về sự thật vụ thảm sát cho tướng William Peers, người luôn đứng về công lí, rằng trong bốn giờ, lính Mĩ đã sát hại năm trăm lẻ bốn người dân không có vũ trang ở Sơn Mỹ. Job bắt đầu tìm thấy ánh sáng sau những ngày tăm tối. Anh sẵn sàng làm nhân chứng trước tòa án binh.

Đại đội Charlie. Làng Hồng. Sơn Mỹ. 16/3/1968.

*

* *

Giữa tháng 11/1970, tòa án quân sự Mĩ đã mở phiên xét xử những quân nhân liên quan trực tiếp đến vụ sát hại tại Sơn Mỹ. Lucy và con gái nắm chặt tay Job khi họ ngồi trong phòng xét xử. Job cảm nhận hơi ấm của hòn bi ve trên túi áo trái. Cùng lúc đó, Medina trân trân nhìn đám đông, nhìn Job căm phẫn và bực bội với hàng trăm chiếc máy ảnh đến từ khắp nơi trên thế giới. Đáng lẽ hắn phải đập vỡ hai chiếc máy ảnh và những cuộn phim chết tiệt kia. Giờ đời hắn căm ghét nhất là những chiếc máy ảnh. Calley bên cạnh im lặng, gương mặt mệt phờ và ở sâu trong đó là nỗi đau khổ, dằn vặt đang dần hé lộ. Job thấy cậu bé Đẩu bay trên đầu các bị cáo, gương mặt cậu ngời sáng sự thánh thiện. Hôm nay, cậu đến đây để chứng kiến những kẻ giết người bị trừng phạt. Cậu bay lên bàn thẩm phán, ngồi lên vai vị thẩm phán già ngắm nhìn toàn cảnh tòa án quân sự.

Những luật sư tham gia tố tụng hết sức kêu oan cho đám quân nhân. Một nguồn tiền lớn và sự thị uy chính trị đã được đưa vào phiên tòa. “Họ hành động vì nước Mĩ. Đó là chiến tranh. Lỗi tình báo quân sự”. Medina gào lên: “Chúng tôi chiến đấu vì danh dự của quân đội Mĩ! Chúng tôi không hề sai!”. Viên thẩm phán già chậm rãi gõ chiếc búa làm từ gỗ cây phong xuống mặt bàn, phát ra âm thanh uy lực, dứt khoát như tiếng súng chỉ thiên trong chiến trận mà những quân nhân đại đội Charlie rất quen thuộc. Medina thoáng giật mình. Sau tiếng búa gõ vang dội là câu nói nghiêm nghị “Trật tự tại tòa!” khôi phục lại không khí nghiêm trang trong phòng xử.

Nhiều ngày căng thẳng, nặng nề như thế trôi qua. Cuối cùng khi viên thẩm phán tuyên bố: “Tòa tuyên án…”, Job thở phào nhẹ nhõm. Anh về nhà ngủ một giấc dài trong căn phòng ấm cúng đẫm hương cỏ cây mùa xuân thơm ngát. Anh thấy cậu bé Việt Nam hiện về trong giấc mơ, miệng mỉm cười, cậu nắm tay Job sánh vai đi bên Lucy và cả con gái anh, họ bước xuống quảng trường có hàng triệu người đang tập hợp với những khẩu hiệu phản chiến.
Lính Mĩ, hãy về nhà!

Trại sáng tác Tam Đảo, tháng5/ 2019
L.V.T.G