Chủ Nhật, 16/12/2018 00:28

Về truyện ngắn "Con rùa" của Nguyễn Ái Quốc

Truyện ngắn được Nguyễn Ái Quốc in trên Báo Người cùng khổ (Le Paria) số 32 tháng 2 và 3 năm 1925, có thể tóm tắt truyện thế này: Viên quan sứ hung hãn "- trong thời kỳ "bình định" - đã từng chặt 75 cái đầu hào mục xứ Bắc Kỳ"...

. PGS.TS Nguyễn Thanh Tú

Truyện ngắn được Nguyễn Ái Quốc in trên Báo Người cùng khổ (Le Paria) số 32 tháng 2 và 3 năm 1925, có thể tóm tắt truyện thế này: Viên quan sứ hung hãn "- trong thời kỳ "bình định" - đã từng chặt 75 cái đầu hào mục xứ Bắc Kỳ", có trát đòi ông Xã - lý trưởng làng Lalo lên hầu. Quá lo lắng và sợ hãi, vợ chồng ông Xã bàn cách làm sao để có món quà "dâng quan". Rồi cũng có cách. Ông Xã mang một con rùa đặt vào cái khay thuê của chính nàng hầu quan sứ làm quà biếu quan. Khốn khổ, trong lúc ông thưa bẩm thì con rùa thừa cơ bò mất để chỉ còn trơ lại cái khay đẹp. Ngài quan sứ khoan khoái kêu lên: "- Ô cái khay đẹp quá thôi! Để ta phải gửi lên biếu quan Toàn quyền mới được!...".

Đây là một truyện ngắn ngắn nhất của Nguyễn Ái Quốc.

Đã có nhiều cách hiểu về truyện này:

Trên Tạp chí Văn học số 3-1974 có nhà nghiên cứu phân tích tác phẩm dước góc độ xã hội: "Bài Con rùa thì để lại nơi ta hình ảnh tươi cười một cách gian giảo và đểu cáng của tên công sứ tham của đút, ăn chó cả lông, giả tảng "khoan dung rất mực" reo to lên - Ô cái khay đẹp quá thôi! - để chiếm cái khay bạc mà người ta phải thuê của chính nàng hầu của nó, không đoái hoài người ta nghèo khổ, chỉ nghĩ đến cấp bổng của mình". Cũng nhìn nhận vấn đề theo hướng này, một nhà nghiên cứu khác, trên tạp chí Tác phẩm mới tháng 7-1974 đồng tình: "Cái khoan hoà ấy mới đau đớn cho ông Xã làm sao. Bởi vì đáng lẽ chỉ mất có con rùa ông lại mất thêm cả cái khay bạc "thuê của chính nàng quan sứ" - cái khoan hoà ấy đã nói lên được tính chất đểu cáng đến mức nào của tên quan cai trị thực dân". Hai ý kiến này tập trung phân tích tính cách đểu cáng của tên quan sứ, một ý kiến tiếp theo, mở rộng hơn, phân tích cả hai nhân vật: viên quan sứ và ông Xã: " Cái khay bạc thuê ở chính nàng hầu quan sứ. Vậy là quan sứ mừng hụt đã kiếm được món quà hối lộ quan Toàn quyền để mong thăng cấp. Vô tình ông lý đã chơi khăm quan sứ" (Tạp chí Học tập số 5-1974). Một nhà phân tích khác lại chuyển sang phân tích nhân vật con rùa, coi đó là cái đầu mối của truyện: "Cái con rùa kỳ lạ, cái con rùa rất nhộn ấy cũng tham gia vào cuộc đấu trí. Con rùa ranh mãnh láu lỉnh ấy chuồn mất để lại cái khay côi cút… Truyện Con rùa khẳng định sức mạnh của người nông dân thông minh trước bọn thực dân ngu xuẩn" (Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 3-1978). Vẫn xoáy sâu vào nội dung phê phán của truyện, một nhà nghiên cứu văn học có uy tín trong tập sách Đi tìm chân lý nghệ thuật (Nhà xuất bản Văn học - 2000) khẳng định: "Tên công sứ đã tự vạch trần bộ mặt thật của mình và toàn bộ cái cơ cấu của chế độ thống trị từ tên toàn quyền chóp bu trở xuống. Tất cả đều thối nát trong tệ tham nhũng. Đồng tiền, bổng lộc là động cơ chính thúc đẩy chúng trong công việc. Tên nào cũng bợ đỡ, xu nịnh cấp trên và doạ nạt, hành hạ người dưới. Tính chất phê phán của truyện trực tiếp và mạnh mẽ. Tác giả đánh thẳng, đánh trúng vào bộ máy cai trị của chế độ thực dân. Qua truyện ngắn này rõ ràng những người dân nghèo bản xứ nghèo khổ đã thắng cuộc trong cuộc đấu trí với bọn thực dân xâm lược" (tr.188). Trên Văn nghệ quân đội, số 675 (8-2007) một tác giả khác khẳng định thêm qua bài viết Con rùa - truyện ngắn chống hối lộ: "Đó là nạn biếu xén, đút lót đã ngang nhiên diễn ra từ cấp thấp, làng xã, đến cấp cao nhất, công sứ và toàn quyền Đông Dương… Con rùa có tính khái quát cao nhất, gợi cho người đọc nhiều liên tưởng đến một xã hội mục ruỗng vì căn bệnh ăn của đút lót".

Như vậy hầu hết các ý kiến đều nhìn nhận tác phẩm dưới góc độ nội dung phê phán viên quan sứ - đại diện cho chế độ thực dân; ca ngợi trí thông minh của nhân vật ông Xã - đại diện cho nhân dân lao động. Chúng tôi không hoàn toàn tán thành như vậy và xin đưa ra một cách hiểu khác.

Thứ nhất, trên văn bản chúng tôi không tìm thấy chi tiết nào có thể chứng minh nhân vật ông Xã thông minh để có khả năng "đấu trí" với viên quan sứ cả, mà chỉ thấy những chi tiết biểu hiện sự băn khoăn, lo lắng, bối rối, sợ hãi… Đây là chi tiết miêu tả sự băn khoăn, lo lắng của nhân vật ông Xã (chúng tôi xin phép in nghiêng những chỗ nhấn mạnh):

"Xem lướt xong lệnh của quan trên, ông Xã gật đầu gãi tai. Ông có vẻ quýnh lắm".

Đây là chi tiết nói lên sự bối rối của ông trong khi nói với vợ:

"Thế nhưng nhà mình có gì coi được: gà, thỏ, vịt, gà tây, thì đã bán sạch để nộp thuế rồi còn đâu! Lấy gì dâng quan bây giờ?".

Và sự run sợ của bà vợ ông Xã:

" …bà biết rằng ông quan da trắng này dữ tợn lắm, và bà run sợ sẵn khi nghĩ trước cảnh tượng chồng bà sẽ được tiếp đón như thế nào nếu không mang gì đến đấm cái mõm công sứ". Còn ông Xã thì sợ hãi đến mức lú lưỡi để không thể nói hết một câu với viên quan:

" - Lạy quan lớn, ông vừa thưa vừa quay lại phía chiếu, dám xin quan lớn nhận cho, của mọn thôi ạ! Cái món qu… qu…".

Theo chúng tôi ông sợ hãi như thế là đúng với lô gích tâm lý nhân vật khi kẻ đối thoại với ông là một hung thần "đã từng chặt 75 cái đầu hào mục xứ Bắc Kỳ", và bản thân ông cũng là một hào mục, biết đâu, cái đầu của ông sẽ là cái đầu thứ 76! Càng sợ hãi hơn khi ông phát hiện món quà ông mang " bẩm quan", "… đã thừa lúc ông Xã khốn khổ nhà ta quay đi mà chuồn mất".

Thứ hai là nhân vật con rùa cũng không thể coi là "Cái con rùa kỳ lạ, cái con rùa rất nhộn ấy cũng tham gia vào cuộc đấu trí. Con rùa ranh mãnh láu lỉnh …" vì đơn thuần nó chỉ là một con rùa không quen nằm ngồi trong đĩa nên có cơ hội là nó bò đi.

Chúng tôi chỉ tìm thấy nhân vật ông Xã thật là "khốn khổ" như trong lời nhận định của người kể, khốn khổ đến mức thảm hại, chứ không hề có một biểu hiện trí tuệ nào như một vài nhà nghiên cứu đã chỉ ra!

Phải chăng phân tích truyện này dưới góc độ thể loại truyện cười thì hợp lý hơn chăng?

Truyện này đúng là một truyện cười, thậm chí tiêu biểu cho một truyện cười.

Truyện cười bao giờ cũng phải có tình huống gây cười, ở đây là tình huống hiểu lầm: biếu rùa nhưng rùa bò đi mất để viên công sứ hiểu lầm là biếu khay. Tiếng cười hướng đến cả hai đối tượng đáng cười: ông Xã và viên công sứ. Cười ông Xã vì ông này định biếu rùa nhưng lại mất cả rùa lẫn khay. Tiếng cười hướng đến ông Xã nhẹ nhàng hơn nhiều tiếng cười phê phán đả kích như làn roi quất hướng vào tên công sứ. Lớp ý nghĩa thứ nhất của truyện là tác giả giễu cái trò biếu xén, nhất là trong xã hội đầy bất công thì cái trò này càng làm cho cả hai phía, người biếu và kẻ được biếu đều đáng cười. Nhìn vào tình huống truyện, giả sử quà vẫn còn mà quan sứ nhận cả quà cả khay thì yếu tố hiểu lầm không còn, tính bất ngờ của truyện giảm đi, do vậy tính cách tham lam vốn là thuộc tính của quan không bộc lộ rõ, bộc lộ hết. Nhìn dưới góc độ này thì nhân vật con rùa chỉ là một thứ đạo cụ được tác giả sử dụng để tạo ra một tình huống gây cười oái oăm chứ không thể coi đó là một "con rùa kỳ lạ, cái con rùa rất nhộn… con rùa ranh mãnh láu lỉnh" được. Nhân vật truyện cười thường không phải là nhân vật tính cách, nó chỉ tiêu biểu cho một nét tính cách nào đó qua hành động. Hai nhân vật quan sứ và ông Xã là điển hình: ông Xã thì quen nô lệ, sợ hãi, nhu nhược…; viên quan thì đã ổn định với tâm lý ăn của đút, nên cái gì ông ta nhìn thấy cũng là của đút, đút cho mình và để đút cho người khác. Do vậy khi nhìn thấy cái khay ông đã "reo to lên" và nghĩ ngay đến chuyện "biếu" cho quan Toàn quyền, chứ ông không thể nghĩ được đến chuyện cái khay kia đã đựng cái gì đúng như chức năng công dụng của nó. Rõ ràng cả hai nhân vật đều là nô lệ của tính cách. Cả hai đều thảm hại như nhau, người thì thảm hại trong thân phận nô lệ, tính cách nô lệ; kẻ thì thảm hại trong tâm lý đút lót, tính cách ăn của đút, dâng của đút lót.

Lời văn gây cười của truyện thì thật đậm đà. ở phép chơi chữ, trong bản phiên âm tiếng Pháp tên làng La Lo chính là phép chơi chữ kết hợp cả tiếng Pháp và tiếng Việt: La, tiếng Pháp có nghĩa: cái, chiếc, sự, cái nỗiLo (tiếng Việt) có nghĩa lo lắng. Tên làng là La Lo được hiểu là làng (của những) sự lo, nỗi lo… Vì sợ quá nên nhân vật ông Xã mới nói lắp: cái món qu… qu… Trong bản phiên âm là: Ce petit ca… ca…, quà tiếng Pháp đọc là cadeau, ông Xã mới nói được ca… ca, mà tiếng Pháp caca có nghĩa là cứt, phân. Đúng là gây cười. Ở phép nhại: "… quan là một ông Tây tốt chỉ thích của tốt…", ở phép đối lập mâu thuẫn: "… vào nhà ngài hai tay rỗng không thì khi ra khỏi nhà ngài là đôi mông no đòn…". Có thể coi truyện ngắn là một vở hài kịch được viết dưới ánh sáng nguyên lý kịch cổ điển của Boalô: duy nhất hành động, duy nhất thời gian, duy nhất địa điểm.

Truyện toát ra một ý nghĩa phổ quát rộng rãi hơn nhiều một ý nghĩa phê phán hay ca ngợi (nếu có):

Phải thay đổi, thay đổi một cách triệt để xã hội thực dân, phải xây dựng một môi trường xã hội mới, xã hội không có kẻ bóc lột và người bị bóc lột ở cái xứ Bắc Kỳ ấy thì con người mới có thể rũ bỏ được thân phận, tính cách nô lệ thảm hại trên để con người trở về với giá trị đích thực của con người! Phải thay đổi hoàn cảnh xã hội Bắc Kỳ để không còn tình trạng con người bị lo sợ, run sợ trước cái ác. Một khi con người còn ở trong tình trạng run sợ, lo sợ thì sẽ không thể có khả năng tư duy, không đủ trí tuệ, như nhân vật ông Xã nọ, sợ đến mức thở không ra hơi, nói không ra câu nên mới lắp bắp như vậy! Và đó cũng là con đường phấn đấu của Nguyễn Ái Quốc ngay từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước!

Tiếng cười của truyện thực sự mang tầm phổ quát và dân chủ, tiếng cười ấy chĩa vào từng sự tha hoá trong xã hội, không đơn giản là chỉ cười tầng lớp nào, loại người nào mà là cười trạng thái tha hoá con người nói chung. Đấy là tiếng cười đòi đổi thay hẳn cả một xã hội.

Truyện in báo tiếng Pháp năm 1925, không biết nhà văn trào phúng Việt Nam nổi tiếng Nguyễn Công Hoan có chịu ảnh hưởng bởi lối viết truyện ngắn này, mà chúng tôi thấy có dấu vết của Con rùa trong Đồng hào có ma (in báo tháng 12- 1937) của Nguyễn Công Hoan?

Bài viết này chỉ đơn thuần là góp thêm một cách hiểu chứ không hề có một ý gì khác ngoài mong muốn hiểu sâu thêm văn bản, làm phong phú thêm, đa dạng hoá cách hiểu một văn bản truyện ngắn độc đáo trong thế giới tác phẩm "không cùng cho những khám phá" của Nguyễn Ái Quốc.