
Trong dòng chảy văn chương đương đại, có những cây bút không ồn ào nhưng để lại dấu ấn bền bỉ. Vũ Thị Hồng là một trường hợp như vậy – một người đàn bà lặng lẽ viết, lặng lẽ sống, và kiên nhẫn gìn giữ ngọn lửa chữ nghĩa cho đến hôm nay.
Bắt đầu con đường sáng tác từ niềm say mê giản dị, chị không chọn đi theo trào lưu thị trường. Ngay từ những trang viết đầu tiên, như Tiếng rừng (tập truyện ngắn); Xóm biển (tập truyện ngắn); Có một thời yêu (tập truyện ngắn); Trở lại là em (tiểu thuyết)… Hồng đã gây ấn tượng bởi sự chân thành và tính nhân bản. Nhân vật của chị không phải những anh hùng lớn lao, mà là những phận người nhỏ bé: người mẹ nơi vùng địch chiếm, những nữ du kích can trường , hoạt động thầm lặng trong lòng địch. Qua ngòi bút dịu dàng, họ hiện lên với vẻ đẹp bình dị, nghị lực sống âm thầm và một lòng theo cách mạng.
Có giai đoạn, Hồng tạm gác bút để chăm lo gia đình. Quãng lặng tưởng như gián đoạn ấy lại giúp văn chương chị sâu hơn, đời hơn. Khi trở lại, chị viết chậm rãi, tinh tế, giàu trải nghiệm. Truyện ngắn của chị thường ngắn gọn, cô đọng, nhưng mở ra cả một lát cắt của đời sống, để rồi người đọc còn bần thần mãi sau khi khép trang sách.

Tác phẩm mới của nhà văn Vũ Thị Hồng.
Người ta gọi chị là “người đàn bà của bếp núc” bởi chị giữ lửa căn nhà có chồng là nhà văn tên tuổi - nhà văn Chu Lai, vừa giữ sự cân bằng trong sáng tác của chồng - chị vào vai biên tập viên, người coi sóc những trang viết nhiều “lửa” của nhà văn - chiến sĩ. Công việc ấy rèn cho chị sự cẩn trọng, độ nhạy cảm với câu chữ, đồng thời từ những tác phẩm văn chương thế giới giới thiệu ngày mỗi nhiều ở trong nước, giúp chị tiếp cận văn học thế giới để soi chiếu lại đời sống Việt. Nhưng việc “rước chữ” chỉ là một phần nhỏ nơi chị, bởi ngòi bút sáng tác mới là căn cốt. Với chị, viết là cách đối thoại với bản thân và gửi gắm tình yêu nhân thế. Chị từng nói: “Nếu không viết, tôi sẽ cảm thấy đời sống của mình thiếu đi một phần thiết yếu, giống như thiếu khí thở vậy.”
Ở tuổi trung niên, chị quan tâm nhiều hơn đến thân phận phụ nữ. Những nhân vật nữ của Hồng không bi lụy, nhưng bền bỉ, sâu thẳm, chịu đựng và vượt qua. Đọc chị, người ta thấy bóng dáng của mẹ, của chị, của chính mình – những người đàn bà “mang gương mặt của chiến tranh”, bình thường mà cao cả. Đó là các tác phẩm: Mùa thu ở lại (tiểu thuyết), và gần đây- Chạm vào kí ức (truyện kí). Bằng sự tinh tế ngôn ngữ, chị dựng lên thế giới nhân vật giàu tính nhân văn, nhẹ nhàng mà lay động. Nhà phê bình Tôn Phương Lan đã nhận xét: “Bà đã đưa người đọc vào chiến trường bằng một thái độ bình tĩnh, những trang viết không dữ dội nhưng gợi cho người đọc hình dung ra sự khốc liệt của chiến trường đằng sau mỗi câu chuyện, mỗi sự kiện…”.

Nhà văn Vũ Thị Hồng thời trẻ.
Vũ Thị Hồng không chỉ viết mà còn âm thầm làm công việc gìn giữ ký ức. Chị ghi lại những câu chuyện nhỏ của đời sống thường nhật nơi chiến trường, nơi chị dâng hiến tuổi thanh xuân với những chuyến đi công tác vào hậu cứ, những trận chống càn, cáng thương binh nơi mặt trận – như một cách lưu giữ cho mai sau. “Nếu mình không viết, có khi ký ức ấy sẽ biến mất mãi mãi,” chị từng nói. Chính vì thế, văn của chị luôn có sự gần gũi, thân thuộc, như mùi thuốc súng, mùi gạo mốc, tiếng hát quan họ cất lên để xoa dịu nỗi đau của đồng đội thương binh – đấy chính là một miền ký ức chung của nhiều thế hệ đi qua chiến tranh…
Dù khiêm nhường, chị luôn tận tâm với lớp trẻ. Với đồng nghiệp, Hồng khuyên: “Đừng vội viết khi chữ chưa chín. Văn chương không cần nhiều, mà cần thật.” Câu nói ấy trở thành nguyên tắc chị theo đuổi suốt đời. Bạn bè thường nhắc đến Hồng với sự kính trọng: một người không “sống bằng chữ” mà “sống cho chữ”.
Hành trình văn chương của chị đã được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng danh giá, như: Giải A cuộc thi tiểu thuyết do Bộ Nội vụ tổ chức, cú đúp Giải thưởng Bộ Quốc phòng (1990 – 1995); (2020 – 2025) - nhưng với chị, đó chỉ là phần thưởng cho sự kiên nhẫn. Những năm gần đây, sức khỏe không còn dồi dào, nhưng chị vẫn miệt mài bên bản thảo. Trong căn phòng yên tĩnh, bên những kỉ vật thời chiến, chị chậm rãi viết, mỗi dòng chữ như được chắt ra từ trải nghiệm và lòng nhân ái. Chị nói: “Tôi còn viết được nghĩa là tôi còn sống, còn chia sẻ với đời.”
Khi nhắc đến Vũ Thị Hồng, nhiều người ví chị như người đàn bà lặng lẽ nhóm lửa. Không tạo đám cháy lớn, nhưng ngọn lửa ấy vẫn bền bỉ cháy, mang lại hơi ấm cho ai tìm đến. Trong văn học Việt Nam hôm nay, có thể chị không phải là ngọn sóng, nhưng chắc chắn là một mạch nguồn trong, góp phần làm cho dòng sông văn chương thêm phong phú và bền vững.
LÊ HUY HÒA
VNQD