Chia tay học trò và đồng nghiệp, tạm biệt mái trường thân yêu, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ngày 27/1/1982 tôi khoác ba lô lên đường nhập ngũ.
Chiếc xe đò cũ mèm nổ như máy cày đưa chúng tôi vượt qua chặng đường dài. Con đường nhấp nhô bởi ổ gà, ổ voi, đất đá lởm chởm vòng vèo qua sườn núi. Gió tràn vào cửa xe mang theo hơi nóng của bụi đường phả vào mặt khô khốc, mồ hôi nhớp nháp. Những cây săng lẻ, những rừng le, rừng nứa… dần dần xuất hiện phía trước cho biết đã đến đất bạn Lào.
Chúng tôi được đưa về đơn vị huấn luyện tại bản Cha Ki. Cái nóng mùa khô ở đây thật khó chịu. Con suối cạn cất tiếng róc rách, tiếng chim bìm bịp, tiếng tắc kè thảng thốt trong đêm thanh vắng càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà. Cầu Cha Ki vừa mới đổ xong, bê tông đang còn nham nhở. Ván cốp pha, cọc chống ngổn ngang cạnh những chiếc xe tăng, xe bọc thép nòng gãy dập xuống đất gợi lại cảnh ác liệt chiến trường xưa.
Những ngày đầu mới biên chế về đơn vị thật bỡ ngỡ, thiếu thốn trăm bề. Chúng tôi vào rừng chặt gỗ, nứa, cắt tranh… làm doanh trại. Mỗi buổi nghỉ, chúng tôi sảng khoái ngụp lặn trên dòng Sê Pôn trong xanh, tận hưởng cái mát mẻ của dòng nước lững lờ. Rồi chuyền tay nhau những lá thư nhà như truyền cho chúng tôi thêm sức mạnh.
Chúng tôi tham gia huấn luyện hai tháng thì kiểm tra bắn đạn thật. Đồng chí chỉ huy cho biết, nếu ai bắn trúng ba vòng mười đơn vị sẽ cho nghỉ phép mười ngày về thăm nhà. Tôi được hai mươi chín. Vậy là không có hi vọng. Tôi cứ trách mình vì không tham gia luyện tập tốt. Những bài tập trong khóa huấn luyện năm nào ở trường tôi cũng được học. Bài bắn súng tôi thuộc lòng. Tôi còn hướng dẫn cho đồng đội, nào là “áp má, kề vai, nín thở, bóp cò…”.
Tôi được điều về đơn vị làm cầu, đóng cách Bản Đông (huyện Sê Pôn, tỉnh Savanakhet, Lào) khoảng chừng một cây số. Gọi là Bản Đông nhưng dân cư ở đây thưa thớt, tuy nhiên so với các bản xung quanh thì Bản Đông sầm uất hơn vì ở đây có chợ, cửa hàng tạp hóa, có quán cà phê nên ngày đêm rộn ràng, nhộn nhịp. Các cô gái dân bản quanh vùng váy đỏ, váy hồng rực rỡ đi mua sắm làm cho chúng tôi thấy đỡ nhớ nhà hơn.
Rồi một ngày dân bản đốt rẫy. Lửa bốc ngùn ngụt, lửa tràn qua mỏm đồi. lửa thốc vào doanh trại. Đơn vị đều đi công trường gần hết, chỉ còn lại nuôi quân và một số chiến sĩ nghỉ ốm. Tiếng kẻng báo động inh ỏi vang lên. Lửa bò lên mái nhà… hừng hực hung dữ. Nhà bốc cháy. Đơn vị ở công trường hối hả chạy về đánh nhau với lửa. Người xách ba lô, người xách súng… Tiếng hò hét cứu cháy làm huyên náo cả một góc rừng. Gió thông thốc làm cho “thần lửa” thêm sức mạnh. Cả dãy nhà trong chốc lát chỉ còn đống tro tàn.
Suốt một tuần sau đó tôi sốt li bì. Đơn vị tất bật dựng lại doanh trại. Vừa mới hết sốt, tôi cũng cố “xung phong” đi bứt tranh. Mấy ngày đầu không sao. Đến ngày thứ ba tôi lại lên cơn sốt. Không kịp gánh tranh về. Người nóng hầm hập, run bần bật. Đồng đội đã về hết chẳng còn ai để “cứu trợ”. Tôi gồng mình cho cơn sốt qua đi. Khát, mệt tôi bò đến ruộng dưa của đồng bào để may ra còn gặp ai đó… Vắng vẻ. Tôi vừa đưa tay chuẩn bị hái quả dưa thì có tiếng người: “Ê! Bộ đội xấu lắm, lấy của đồng bào mình mà không xin”. Tôi ngoảnh lại cất tiếng: “Xăm-bai-đi-phò! (Chào bố!) Con bị sốt nên khát quá, chẳng thấy có ai mà xin cả”. Hai người đàn ông lực lưỡng, một già một trẻ đen nhẻm đi về phía tôi, tay sờ trán, miệng kêu lên: “Bộ đội pên-khậy (sốt rét) thật rồi!”. Người trẻ gánh tranh, người già dìu tôi về đơn vị. Mọi người chạy ra mừng rỡ đưa tôi vào doanh trại và không quên “khop chay-phò” (cảm ơn bố).
Sau đợt hỏa hoạn, mọi nền nếp sinh hoạt nhanh chóng vào guồng trở lại. Đại đội trưởng đơn vị tôi nghiêm lắm. Anh em thường gán là “ông hắc xì dầu”. Ông người Hà Nội gốc, thư sinh nhưng rắn rỏi, toát lên tính kế hoạch công việc của người từng trải. Nói chung ông bố trí công việc hợp lí, hợp lí đến mức anh em lính không thể ngồi chơi được. Tháng nào Đại đội cũng hoàn thành nhiệm vụ và vượt kế hoạch. Hôm nào giao ban về, bếp có thêm thịt hộp, cá khô… là anh em biết Đại đội được khen.
Tôi được điều động về Ban tham mưu Trung đoàn bộ, phụ trách nuôi quân kiêm quản lí bếp ăn. Tôi tích cực tăng gia cải thiện bếp ăn, chịu khó chăn nuôi, hái măng… Được làm bạn bếp núc với mấy “chị nuôi” là tôi vui lắm rồi. Chị em nữ giới dù sao họ vẫn có những tình cảm đặc biệt, họ quan tâm chúng tôi lắm. Tôi cứ nhớ mãi cái hôm đi nhận nhu yếu phẩm cho đơn vị về, một cô chạy ra hỏi: “Kin khậu lẹo bò?”. Nghe đến đây tôi nổi đóa lên vì tưởng cô ấy trêu chọc mình. Nhưng cô cũng kịp giải thích là muốn hỏi tôi đã ăn cơm chưa. Tôi thành thật xin lỗi vì vốn tiếng Lào của mình ít ỏi.
Nhân dân Lào đón Quân tình nguyện Việt Nam. Ảnh: TL
Mùa mưa đến, mấy búp măng le, măng nứa đội đất ngoi lên. Hôm chủ nhật, tôi và mấy anh chị em trong tổ nuôi quân cùng đi lấy măng. Lấy măng phải sang bên kia sông Sê Pôn thì măng mới ngon, mới nhiều. Tôi vào nhà dân gần bến để mượn thuyền sang sông. Thuyền độc mộc nhỏ chòng chành không đủ sức chứa cho 5 người. Dòng sông dạo này mưa nhiều nên nước chảy mạnh hơn. “Không sao đâu”! Tôi động viên mọi người và lấy hết sức bình sinh giữ tay chèo. Con sóng cuộn lên, một cô giật mình đứng dậy. Chiếc thuyền đảo qua đảo lại rồi lật úp, mọi người chới với. Mấy đứa trẻ khoảng mười ba, mười bốn tuổi ngồi trên ngọn cây gần đó cười rộ lên. Bỗng có tiếng ông lão quát: “Nặn! xúc-ca-xởn-tha hán” (Này! Cấp cứu cho bộ đội). Mấy đứa trẻ nhảy tùm trên cây xuống sông, mấy nam thanh niên trong bản hớt hải bơi ra dìu chúng tôi vào bờ. Mọi người ướt sũng, hai cô bị sặc nước mặt xanh tái. Nghỉ một lúc. Hoàn hồn. Chúng tôi “Khop chay, khop chay” (cảm ơn) rồi dắt nhau về.
Người dân Lào cũng như người Việt, cần cù chịu khó làm ăn. Thời đó dân Lào cũng vất vả lắm, cái ăn, cái mặc luôn thiếu. Chiếc gùi sau lưng lúc nào cũng nặng trĩu những củi, bắp. Nơi chúng tôi đóng quân, người Lào nói tiếng Việt tương đối thành thạo. Họ giao tiếp với bộ đội không cần phải phiên dịch. Bộ đội cũng cố bập bẹ tiếng Lào, có khi vừa nói tiếng Lào xen tiếng Việt nghe ngồ ngộ. Bộ đội và đồng bào sống thân thiết, tình cảm. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng đi vào bản uống rượu, tán gẫu với thanh niên, mua sắm, đổi chác.
Hằng năm, vào giữa tháng 4 dương lịch là người Lào bắt đầu ăn Tết. Những ngày đó đơn vị cho chúng tôi được về bản tham gia vui Tết cùng đồng bào. Tết Lào có nhiều tập tục như: té nước, phóng sinh, buộc chỉ cổ tay. Tôi là thanh niên tích cực, có nhiều thành tích, biết hát, ngâm thơ nên nằm trong diện “đại biểu” đi dự Tết cùng Trung đoàn trưởng và thủ trưởng các Ban. Tôi chọn bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất để mặc. Vừa bước xuống xe, các cô gái Lào chạy ra dùng nước té vào xe, vào mọi người. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu, sạch sẽ và mạnh khỏe. Ai bị ướt nhiều là hạnh phúc nhiều. Nước được dùng từ hỗn hợp gồm: nước nghệ, bồ kết, hoa, dầu thơm… nên ai bị té nước cũng thấy dễ chịu. Tôi mang quà của đơn vị nên đi sau. Nước hết, một cô gái Lào nhanh nhảu chạy đi lấy, rồi té vào người tôi. Trời! Thứ nước gì mà đùng đục, hôi hôi. Thì ra, cô này “sáng ý” dùng nước vo gạo để té. Người tôi ướt sũng, hôi hám. May sao anh thanh niên bản chạy về nhà lấy cho tôi bộ quần áo thay tạm.
Lễ buộc chỉ cổ tay và kết nghĩa truyền thống chứng tỏ sự lưu luyến, mến khách giữa dân bản và bộ đội được tiến hành. Và sau đó là uống rượu cần, sau tiệc rượu cần là lăm-vông (điệu múa Lào). Đống củi to tướng đặt trước sân nhà rông được trưởng bản châm lửa đốt. Ngọn lửa rừng rực bốc cháy. Bản nhạc lăm-tởi cất lên, tất cả đều hát. Lăm-tởi là loại lăm (có nghĩa là hát) phổ biến nhất ở Lào. Nhịp điệu của lăm-tởi sôi nổi, dồn dập. Loại lăm này được biểu diễn bởi hai người, một trai và một gái hoặc tập thể theo vòng tròn vừa ca vừa múa theo điệu khèn, nhịp trống. Điệu múa rất nhịp nhàng, tình tứ. Lăm-vông với các bài lăm-tởi vang lên da diết, dìu dặt như muốn giữ chân chúng tôi lại.
Năm tháng trôi dần, công việc nối tiếp công việc. Và rồi ngày ra quân cũng đến, đó là một ngày đẹp trời năm 1984. Tôi mừng lắm vì mình đã hoàn thành nghĩa vụ cao cả Tổ quốc giao cho, vì sắp được về bên bố mẹ, gia đình, trở lại với nghiệp dạy học. Vui vì cầm tấm bằng khen của Bộ Quốc phòng để về khoe với bố mẹ. Nhưng, những cảm xúc xa đơn vị, xa bạn bè cứ trào dâng, lòng tôi nao nao nỗi buồn. Ngày ra quân mọi người tiễn tôi trong tình yêu thương đồng đội. Tôi cảm ơn rất nhiều về những tình cảm bao ngày gắn bó, vui buồn bên nhau.
Kỉ niệm những năm tháng quân ngũ trên đất bạn Lào đã theo tôi suốt quảng đời dạy học. Vậy mà đã hơn ba mươi lăm năm trôi qua, kí ức Trường Sơn Tây đã theo tôi đi vào từng trang giáo án, từng lời trong bài giảng; gieo vào lòng học sinh tình yêu đất nước thiết tha. Chắp cánh cho tôi đi vào lời thơ, lời văn trong từng trang viết.
Sau này tôi có dịp trở lại Bản Đông. Bản Đông bây giờ đã đổi thay nhiều lắm. Nhà cao, người đông đúc tấp nập. Có nhà hàng, siêu thị… bán đủ các mặt hàng. Những người dân nước bạn Lào giờ đã có cuộc sống đầy đủ hơn. Trên gùi của các cô gái là những mảnh vải hoa rực rỡ, những bộ quần áo đắt tiền. Tôi gặp lại những người bạn Lào niềm nở thân thương như gặp lại người nhà của mình. Tôi cảm nhận rõ tình cảm hai nước Việt - Lào ngày càng sâu đậm.
NGUYỄN ĐẠI DUẪN
VNQD