Những con chữ tạo sinh nghĩa

Thứ Tư, 22/02/2017 00:43
(Đọc Ga sáng, tập thơ của Trần Quang Quý, Nxb Hội Nhà văn, 2016)

.  HOÀNG THỤY ANH

Trong bầu trời thi ca, người nghệ sĩ đích thực, chân chính luôn tự thiết kế cho mình đường bay riêng. Cũng như những tập thơ trước, tập Ga sáng lần này nhiên liệu làm nên đường bay thơ của Trần Quang Quý cũng dựa trên lớp động từ độc lập, chỉ hoạt động và trạng thái của chủ thể, nhưng đường bay ở đây đã có sự dịch chuyển, điểm nhìn đa dạng và phong phú hơn, chiều kích của không gian và thời gian được nới giãn hơn. 

Bản chất của thơ là tình, là điệu, là hồn. Nếu thiếu cảm xúc, thơ sẽ mất đi vẻ đẹp tự nhiên tựa như vị vàng ươm ngọt thơm vốn có của nắng. Bay bằng cảm xúc, bằng men tình nên thơ Trần Quang Quý giàu sức lay động, ám ảnh. Ga sáng dày đặc động từ (nảy, nâng, quẫy, nhốt, dắt, chảy, bóc, cuộn, khóa, lõm, trôi, hái, lạc, vá, cấy, bấm, thắt, ghì, níu, găm, lùa, lót, giãy, nhũn, gói, treo, dạt, mọc, cất, mang, dựng, chở, nhặt, giắt, khuấy, đổ, thức, lùa, nhón, ngập, gặm, nhấp, tõe, gieo, oằn, chùng, gánh, nhói...). Đây đa phần là những động từ tác động, tác động lên đối tượng, khiến đối tượng biến đổi về trạng thái, tính chất và cả vị trí. Lớp động từ này là điểm nhấn, là bước sóng phá vỡ sự bằng phẳng, đơn điệu của cuộc sống cũng như nhen lên hơi ấm của tình người.

Trần Quang Quý ý thức rất cao về đường bay của mình. Ông cho rằng, nếu không mang trong mình giấc mơ bay thì khó có thể đạt được chủ đích: tít tắp xa kia những chân trời hoang liêu, những cánh đồng ảo ảnh/ không gì có thể cất cánh nếu không mang những giấc mơ bay/ như hồng hạc kia đang cặm cụi nhặt ngày mai/ trên những lớp bùn non di trú (Trên đôi cánh hồng hạc). Vì thế, để đường bay ấy thêm phần sinh động, ông biết cách chuẩn bị, sắp xếp cho mình một hành lí riêng, hành lí đầy cộm chữ: tôi ăn ngủ chữ, tháp tùng chữ bước vào những số phận/ những ngóc ngách cuộc đời, những giao thoa chưa cất thành lời/ những cuộc phối sinh ngữ nghĩa/ và khi ấy, những con chữ như không còn là chữ/ hồn chữ thiên di/ vương quốc chữ tự do bay ngoài trang sách (Đời chữ). Ga sáng có đến 28 từ bay trên tổng số 45 bài thơ. Phải chăng bay là khát vọng thường trực trong tâm hồn Trần Quang Quý? Mỗi đường bay như một mũi tên hướng về phía tự do, mới lạ: đội hình bay lập trình những nghìn năm trước/ một mũi tên mở cánh tự do/ tự do không gian/ tự do dịch chuyển/ kể cả không gian khác thói quen mình/ thế giới từng ngày lồng nhau khát vọng (Đàn sếu). 

Những con chữ thiên di, những con chữ có linh hồn bao giờ cũng đòi hỏi một không gian rộng lớn để thỏa khát. Trần Quang Quý biết tạo vị, tạo sắc, tạo thanh cho khung trời ấy bằng các điểm nhìn thanh tân, tươi trẻ, ăm ắp tình. Ông gọi tên những thanh âm sống động, ấm áp của cuộc sống là thanh âm tình, thanh âm mùa xuân, thanh âm thảo nguyên, thanh âm dòng sông: từng chùm âm thanh nhảy nhót trong ngực/ vỡ òa cơn giao cảm/ anh muốn hôn lên ánh mắt em/ từng thanh âm tuôn chảy/ đưa ta đến những mùa xuân, những thảo nguyên mênh mông cỏ biếc/ những dòng sông thao thiết, những mùa đông sương giăng mờ trời/ những vũ điệu đắm mê… (Bản concerto số 9). Hình ảnh thiên nhiên luôn hiện lên như một giai nhân, tình nhân rạo rực xuân thì. Chúng ta thấy điều này khá rõ qua cách kết hợp từ của tác giả như môi phù sa, ngực đêm, mi đêm, gót khuya, hàng mi mùa thu, môi cỏ mềm, ngực sóng, môi đêm, gót phù sa, ngực sông, môi trăng... Thiên nhiên và con người luôn lồng hút trong tâm thế trao nhận: sực nhớ cái ôm đầy sông Hậu/ sực nhớ áo em cánh buồm cuộn tôi lồng lộng chiều Vàm Cống/ những ngọn gió hai mươi không biết mệt mỏi/ muốn ôm ghì cánh đồng/ muốn ôm cả phì nhiêu hoang dã/ cho tan thành giọt giọt phù sa/ cho những nhớ thương ùa sóng cả (Một bờ sông Hậu). Từ ôm đầy, ôm ghì đến ôm cả đều diễn ra theo mạch chảy tự nhiên của cảm xúc, cho thấy sự đắm si của chủ thể trước vườn trần thắm sắc đượm hương.

 
ga sang

Ở tập Ga sáng, tình yêu luôn được soi chiếu bởi hai điểm nhìn: điểm nhìn nhân vật trữ tình và điểm nhìn đối tượng trữ tình. Hai điểm nhìn này phối hợp và tác động qua lại trên ván bài chữ. Thứ nhất, sử dụng cấu trúc chủ ngữ + động từ. Thứ hai, theo cấu trúc động từ + chủ ngữ. Với cấu trúc chủ ngữ + động từ, chúng ta có thể liệt kê các dạng câu như: tôi ôm dòng sông nghe giai điệu bè trầm ngàn xưa kể chuyện; tôi se sẽ bóc chiều Trùng Khánh; anh mắc cạn trên một dòng sông lạ; anh bóc ngày ra gặp thăm thẳm mắt nhìn; một ngày anh lạc mắt Sài Gòn; sông mấy mùa trôi gầy những giấc mơ xanh... Khi chủ thể đi kèm (vị trí liền trước) với động từ chủ động thì chủ thể giữ vai trò chủ động. Chủ thể có khả năng điều khiển, chi phối hành động theo ý thức, chủ đích của mình. Như đoạn thơ sau: tôi thử lặn vào những hạt nâu trên vốc tay em/ nghe bùi thơm khúc khích/ nghe hồi hộp những bước chân săn chắc lên sàn/ nghe những cơn mưa sương, đất thầm quặn hạt/ tôi thử giắt tôi vào non xanh/ hổn hển ngực phập phồng đường về bản/ áo chàm, mắt hạt dẻ đang cười/ thơm thơm chiều Trùng Khánh (Bóc chiều). Nhà thơ muốn ngụp sâu vào mùa màng, đất đai mà tận hưởng những ngọt mát, muốn quyện hồn mình vào khắp chốn mà tung tẩy niềm vui. Nhưng đâu chỉ nhập cuộc để mà tận hưởng, nhà thơ còn khát muốn dấn thân vào khổ đau để cảm thông, chia sẻ: tôi nảy mầm trong tận cùng những thương đau/ từng tả tơi buồn, từng phận cát trước biển số phận/ tự thắp lửa nhóm cánh đồng nhân nghĩa/…/ tôi nảy mầm trên mỗi bước cần lao/ từng đau lỡ con đường/ từng quẫy đạp dứt yếm bóng tối (Gieo). Ở cấu trúc động từ + chủ ngữ, với vị trí liền sau động từ chủ động, chủ thể không thể điều khiển, làm chủ được hành động của mình mà bị tác động, bị dẫn dắt bởi đối tượng khác. Chuyển đảo vị trí của động từ lên trước chủ ngữ, Trần Quang Quý thường thêm các yếu tố phụ, từ chỉ số lượng, đơn vị hoặc thêm trạng ngữ. Có thể kể ra đây một số dẫn chứng như: dắt tôi thơm một dải đêm buông; mãi khuấy trong tôi nhịp những con thuyền; lõm vào tôi từng vệt lõm con đường; cấy trong tôi hi vọng của tươi xanh; níu tôi vào mắt quê; quá vãng gieo tôi lên từng ngõ xóm còn ngái thơm mùa gặt... Ở vị trí này, động từ có khả năng tác động, làm biến chuyển đối tượng mà nó hướng đến. Vậy từ một chủ thể chủ động sang một chủ thể bị động, Trần Quang Quý muốn bày tỏ điều gì? Chúng ta thấy không gian mà nhà thơ bày biện là một không gian rộng lớn, chứa đựng biết bao mầm sống, bao niềm vui, bao nỗi buồn, bao mất mát, chia li... Điểm nhìn của nhà thơ xuất phát từ trái tim, từ tâm hồn yêu cái đẹp nên người đọc dễ hiểu vì sao trước sự vật hiện tượng nào nhà thơ cũng bị hớp hồn, bị dẫn dắt, bị quyến dụ. Đấy là sự chấp nhận dấn thân, quyện hòa, giao cảm của tác giả chứ không phải bị cưỡng chế. Ngay việc tác giả dùng nhiều thành tố phụ chỉ phương hướng vào (50 lần/ 45 bài) cũng cho thấy sự tác động ấy là một quá trình vận động tự nhiên, không gượng ép. Và lúc này, sự hòa điệu đạt đến mức độ tuyệt đẹp của nó. Vạn vật tác động đến trạng thái của con người, và đến lượt con người tương giao với vạn vật bằng mọi giác quan, bằng trái tim chân thành, mãnh liệt. 

Ga sáng thắp ánh sáng tình yêu nhưng cũng đắng đót phận người. Ở thể tài thế sự, động từ phát huy được thế mạnh khi thể hiện cảm xúc, tư tưởng và thái độ của tác giả. Đoạn thơ sau khai thác những động từ tác động khá đắt: những bước chân mưu sinh vắt ngược dốc đồi/ cắm sâu bùn đất/ những bước chân giẫm nhòe hoàng hôn/ chưa qua nổi phận sương khuya đèn sớm/ lặng lẽ bước vào đời nhau mà sinh nở/ mà hoa trái thơm mùa, mà đắng lòng ngậm ngải?/ những dấu chân nghẹn góc nhà quê (Dấu chân). Sự xuất hiện liên tiếp các động từ vắt ngược, cắm sâu, giẫm nhòe, bước vào, nghẹn khiến những nhọc nhằn cuộc đời cứ gồ lên như vết thương lâu năm không liền da, đeo bám, dai dẳng. Đói nghèo vá víu, cắm sâu, hằn ngang dọc trên gương mặt thời gian: Những đứa trẻ ngóng manh áo mới/ vá cái nghèo thế hệ/ chiều cuối năm, mẹ còn mãi lui cui đồng trũng/ cấy phận mình vào giá lạnh mùa đông/ gặp những đồng xu nhảy nhót phập phồng trên lỗ đáo/ hồi hộp giấc mơ kẹo bột (Ngược Tết). Nét vẽ của đời, của phận người chuyển động trong thế giới nội cảm của nhà thơ. Vá rồi cấy, nỗi buồn thân phận gieo đi gieo lại mãi. Biết đến khi nào hái được quả ngọt dù chỉ hiện tồn trong giấc mơ? Tôi lại thèm bước chân thả rông trên đất đai bình dị/ dắt hoàng hôn chạy ào con đường cỏ/ thả áo phong phanh gió/ ngửa mặt giữa trời hứng một làn sương… (Trên bức tường rào gạch). Các động từ thèm, thả, dắt, chạy, ngửa, hứng đã phản ánh thần thái, tâm trạng, khát vọng của tác giả trong cuộc hòa giao với đất trời. Tiếng gọi đời sống khuấy lên, dấy lên kéo không gian đời xích lại không gian tâm tưởng của thi sĩ. Tất cả thể hiện một tinh thần nhập cuộc hết sức thao thiết.

Với một tinh thần nhập cuộc như thế, với một cái nhìn đầy trìu mến, hi vọng như thế, ở đề tài tình yêu, dễ hiểu vì sao trái tim của thi sĩ luôn trào sôi nhiệt thành, khát bỏng. Bao hi vọng ngóng chờ đêm khóa chặt môi đêm/ nếu sáng mai thức dậy em ra mở cửa/ có làn gió ban mai ùa vào má em, mắt em, môi em/ thì đấy là cái hôn anh/ nó trằn trọc suốt đêm theo gió (Trong gió ban mai). Nhà thơ sử dụng cấu trúc điều kiện nếu... thì ở đây một mặt làm cho lời tâm tình trở nên lịch nhã hơn, mặt khác lòng trân trọng hướng đến em trở nên chân thành hơn.    

Trần Quang Quý là kẻ du ca đi qua những miền đất lạ, cất lên lời yêu thương đắm say. Mỗi bài ca là một cuộc kết nối tương giao giữa con người và vũ trụ. Bài ca nào cũng giàu hình ảnh, tạo biểu cảm mạnh bởi lối liên tưởng khá bất ngờ, đầy ám dụ. Chẳng hạn, bóng con đò nằm lép ngực đêm. Câu thơ tự thân là một bức tranh khá ấn tượng. Nỗi cô đơn, lẻ bóng được bóc tách đến kiệt cùng. Hình ảnh bầu ngực xuất hiện không ít lần trong Ga sáng. Em áp ngực mùa thu đầy lên vai anh/ chiều áp ngực lõm cả ngày thu rỗng. Ở hai câu thơ này, vẻ đẹp của nỗi buồn sâu thẳm, trống vắng cứ mênh mang vời vợi lồng xoắn giữa khuông ngực mùa, khuông ngực thời gian.

Quả đúng là “chữ bầu lên nhà thơ” (Lê Đạt). Lớp động từ như lõm, áp, cấy, nhốt, thắt, lép, rỗng, cuộn... đã làm nên thi hiệu Trần Quang Quý. Chúng không đơn thuần mang nghĩa tự thân mà còn được đẩy lên cao hơn, bồi đắp những trường nghĩa mới, xóa bỏ sự rỗng mòn ngữ nghĩa, tạo dựng những thi ảnh độc và lạ. Từ nhịp chữ, Trần Quang Quý tạo sinh nhịp lòng. Sự cộng hưởng này không theo một quy luật nào. Tùy theo tính chất tự phát nghĩa của chữ trong mỗi ngữ cảnh mà người đọc có những cảm thụ, khám phá riêng.

 Như vậy, có thể coi lớp động từ là luồng tín hiệu làm nên trọng lượng, âm vang của Ga sáng, làm nên những con-chữ-bay, những con chữ có khả năng tạo sinh nghĩa, làm nên những cuộc dịch chuyển từ ngôn ngữ đến tư tưởng, từ ngoại cảm đến nội cảm cũng như minh chứng khả năng tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới của Trần Quang Quý trên hành trình sáng tạo.

 H.T.A
 

 
VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Cây thốt nốt quỳ trên núi Tưk-cot

Tôi được nhiều lần sang Campuchia cùng các đội chuyên trách tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hi sinh qua các thời kì chiến tranh... (HỒ KIÊN GIANG)

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Nguyên mẫu trong hai truyện vừa đầu tay viết cho thiếu nhi của tôi

Khi viết cuốn Những tia nắng đầu tiên tôi đã hóa thân vào các em nhỏ học sinh lớp 6 của năm học 1969 - 1970 ở Hà Nội... (LÊ PHƯƠNG LIÊN)

Bà Minh của tôi

Bà Minh của tôi

Sống ở Hà Nội, trở thành một công dân có hộ khẩu đến nay đã hơn hai thập kỉ, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác mình thuộc về Hà Nội... (ĐỖ BÍCH THÚY)

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Đồng đội là nguyên mẫu trong các sáng tác của tôi

Có nhân vật chỉ là dáng dấp của nguyên mẫu, có nhân vật là nguyên mẫu đã sống và chiến đấu cùng tôi, suốt những năm tháng ở rừng... (VŨ NGỌC THƯ)