Từ nguyên mẫu đến nhân vật

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Thứ Ba, 07/10/2025 11:49

. PHẠM VÂN ANH
 

1. Trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói Biên khu Việt Quế là một trong những tác phẩm tôi dành rất nhiều tâm huyết, bởi tôi luôn coi cuốn sách như nén tâm hương để tưởng nhớ và dâng lên anh linh các chiến sĩ Giải phóng quân Việt Nam năm xưa đã theo vượt dãy Thập Vạn Đại Sơn trùng điệp sang giải phóng một vùng biên khu rộng lớn của tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc năm 1949. Đây là một chiến dịch ít được nhắc đến, cũng không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Trong quá trình viết, với mong muốn không phải một tác phẩm sáng tạo giả tưởng mà là một cuốn văn học sử, tôi đã tìm được một số thông tin khái quát trong Từ điển Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị của Quân khu 1, hồi kí của Đại tướng Chu Huy Mân, hồi kí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một số cuốn sách xuất bản trước năm 1979 của phía Trung Quốc với những câu văn hết sức trân trọng, tình nghĩa biểu thị cho sự tri ân Quân đội nhân dân Việt Nam giúp giải phóng Biên khu Việt Quế, giúp lão bá tánh của biên khu có đời sống no ấm.

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó. Tôi đã đến huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn là nơi đại quân xuất kích sang bên kia biên giới. Tôi đã đến thắp hương ở đình Pò Háng, nơi Bác Hồ tặng cho bức trướng thêu chữ Hán “Kháng chiến hộ quốc”. Tôi cũng đến huyện biên giới Bình Liêu ở Quảng Ninh, leo lên tận đỉnh núi để dễ bề cảm nhận và hình dung các cụ đã vượt qua dãy núi đó như thế nào.

2. Các nhân vật trong Biên khu Việt Quế đa phần đều được xây dựng trên nguyên mẫu là những nhân vật có thật, trực tiếp tham gia các trận đánh lớn nhỏ suốt 4 tháng từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1949. Đương nhiên trong cuốn tiểu thuyết này tôi cũng dành những phân đoạn nhất định để nói về tình quân dân hai bên biên giới, những nguyên mẫu tôi không thể gặp mặt nhưng lại gieo cho tôi rất nhiều cảm xúc. Nhân dân Việt Nam những năm đó đi dân công hỏa tuyến, sẵn sàng mất nhà mất cửa, cắt lúa non, thậm chí nhịn ăn nhịn mặc. Bản thân ăn củ mài, củ ráy, thân chuối nhưng đồng bào vẫn dành những hạt gạo, hạt ngô quý giá đó để gửi cho kháng chiến. Nhân dân Trung Quốc cũng vậy. Bà con vùng biên khu trải qua hơn chục năm hết bị quân Tưởng chà đi xát lại, trấn lột, bắt nộp tiền bạc, lương thực thực phẩm đến bị thổ phỉ cướp bóc. Thấy một đoàn quân hùng hậu ào ào từ trên núi xuống, họ cũng rất lo sợ, bất an, dè chừng. Nhưng cùng với sự cảm hóa, công tác dân vận của Giải phóng quân Việt Nam, bà con vô cùng cảm phục tấm lòng của những người lính.

 

3. Nhân vật chính trị viên Long Xuyên được tôi xây dựng từ nguyên mẫu Đại tá Hoàng Long Xuyên. Năm 2020 tôi đến Đồng Hỷ, Thái Nguyên để gặp cụ trò chuyện lấy tư liệu. Khi ấy cụ 103 tuổi. Hôm gặp mặt, cụ mặc bộ quân phục cũ, từ tốn kể chuyện hoạt động cách mạng ngày trước. Vào thập niên 40 của thế kỉ trước, chàng thanh niên Hoàng Long Xuyên được Bác Hồ chọn cử đi học ở trường quân sự Hoàng Phố. Cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1944, đoàn thanh niên học quân sự rời thị trấn Đại Kiệt (Trung Quốc) về Tổ quốc để hội quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo, chuẩn bị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Hoàng Long Xuyên được phân công về gây dựng cơ sở cách mạng tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Thời điểm ấy, phong trào cách mạng huyện Hòa An đang phát triển mạnh mẽ, có cán bộ quân sự về thì càng trở nên chính quy và hoạt động có bài bản hơn.

Bước vào giai đoạn cao trào kháng Nhật cứu quốc, phân đội do Hoàng Long Xuyên làm Phân đội trưởng nhận được lệnh cấp trên triển khai “Đông tiến” mở đường giao thông liên lạc tới Lạng Sơn và mở rộng căn cứ Cao Bằng đến các huyện thuộc Lạng Sơn. Ngay sau khi nhận lệnh, tất cả đội viên trong phân đội Long Xuyên đã nhanh chóng chuẩn bị lương thực và kiểm tra lại vũ khí, đạn dược… vượt ranh giới sang huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn chiến đấu dũng cảm, lần lượt đánh chiếm các bốt đồn của địch. Từ ngày 18 tháng 8 cho đến ngày 22 tháng 8, Phân đội trưởng Hoàng Long Xuyên đã chỉ huy đơn vị tiến hành hỗ trợ quần chúng cách mạng nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật.

Ngày 24/8/1945, tại Ba Xã (châu Điềm He), Phân đội trưởng Hoàng Long Xuyên tham gia cuộc họp của Tỉnh ủy Lạng Sơn. Hội nghị thành lập Ban chỉ đạo khởi nghĩa của tỉnh. Tới 13 giờ, ta đã chiếm lĩnh các vị trí trọng yếu, phá đề lao, giải thoát cán bộ và quần chúng bị địch bắt. Phân đội Long Xuyên phối hợp cùng các đơn vị bao vây dinh Tỉnh trưởng, buộc Tỉnh trưởng bù nhìn Linh Quang Vọng phải đầu hàng. Tiếp đó, dưới sự chỉ huy của Ban Việt Minh các châu, huyện, lực lượng vũ trang chủ lực của tỉnh cùng quần chúng cách mạng đã giành chính quyền ở Cao Lộc và Lộc Bình, góp phần vào thắng lợi chung của phong trào Cách mạng tháng Tám trên toàn quốc, tiến đến giành độc lập, tự do cho dân tộc với đỉnh cao là ngày Quốc khánh 2/9. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, Hoàng Long Xuyên với tư cách là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 đã tham gia rất nhiều chiến dịch quan trọng của Mặt trận Việt Minh. Năm 1949, Trung đội trưởng Hoàng Long Xuyên được cử làm Phó Tư lệnh Mặt trận Long Châu, tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn giúp Trung Quốc giải phóng biên khu Quảng Tây và Vân Nam.

 

4. Nhân vật Trần Bình được lấy cảm hứng từ người thầy dạy ca trù mà tôi có cơ duyên gắn bó khi đang là học sinh lớp 10: nghệ nhân Nguyễn Hãn - bí danh “Hãn Đen”, một trong những nghệ nhân trống chầu hàng đầu Việt Nam sau này. Năm 1945, ông là một trong “tứ hổ” bảo vệ tướng quân Nguyễn Bình, trực tiếp tham gia giải phóng khu Đông Triều. Ông kể rằng, trước tình hình cách mạng đang có những biến chuyển theo chiều hướng thuận lợi, ông cùng tổ du kích 6 người do đồng chí Nguyễn Hữu Hãn - bí danh “Hãn Béo” chỉ huy tiến về Đông Triều. Xe vừa vào tới Đông Triều, bị chặn lại tra xét. Nguyễn Hãn trả lời: “Chúng tôi là đội du kích đến từ Hải Phòng, trên đường sang đây đã cướp được một số vũ khí xin nộp lại cho đồng chí chỉ huy mặt trận.” Lúc ấy, một người đàn ông tầm thước, đeo kính đen từ phía sau đám đông bước lên hỏi cặn kẽ sự việc rồi bảo: “Chúng tôi trù tính là ngày mai sẽ tiến đánh Quảng Yên, nhưng các anh đã sang đây và đánh động chúng rồi nên ngay đêm nay chúng ta tiến hành luôn để bọn chúng không kịp chuẩn bị.” Đêm 20/7, cả Quảng Yên rung chuyển trong tiếng súng nổ và tiếng quân reo hò không ngớt. Ta chiếm được các cơ quan đầu não và làm chủ được tình hình. Toàn bộ số lính khố xanh đều buông súng đầu hàng, một nửa xin về với gia đình còn một nửa tình nguyện theo ta tiếp tục chiến đấu. Trận ấy, ta thu được trên 200 khẩu súng cùng gần 3 vạn bạc và tiến hành thành lập chính quyền lâm thời tại đây, góp công lớn vào thành công chung của phong trào Cách mạng tháng Tám trên cả nước.

Về già, nghệ nhân Nguyễn Hãn đã có nhiều đóng góp trong việc truyền dạy nghệ thuật đánh trống chầu và sáng tác lời mới cho các làn điệu ca trù. Những tư liệu cá nhân và sự hiểu biết, tài hoa của ông đã có nhiều giá trị cho công trình Hồ sơ nghiên cứu ca trù của Viện Văn hóa và được đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

 

5. Người thiếu niên dũng cảm đảm nhận nhiệm vụ chiến sĩ liên lạc Văn Nhã trong Biên khu Việt Quế có nguyên mẫu là Thầy thuốc Ưu tú Thân Văn Nhã. Tôi đã dựa vào những chi tiết đắt giá trong cuốn hồi kí của cụ tặng để xây dựng nên nhân vật này. Trong hồi kí, cụ có thuật lại cảnh những chiến sĩ Giải phóng quân Việt Nam đi chân trần trên đá tai mèo sắc nhọn. Các chiến sĩ không có thuốc, chân liên tục bị thương, phải tìm cây ngải cứu rừng đem vò, nhai nát đắp lên vết thương và lấy lá chuối, lá rừng bọc lại. Rồi giữa màn đêm âm u, đoàn quân vượt rừng, không có la bàn, không được đốt đuốc, soi đèn để đảm bảo tính bí mật. Do đó, ngoài trang thiết bị chiến đấu, mỗi người còn phải mang trên vai một thanh củi mục để trong đêm đen tỏa ra ánh lân tinh. Từng trung đội hay đại đội có thể nhìn thấy những đốm sáng như đàn đom đóm bay của đơn vị đi trước, giúp các chiến sĩ định hình con đường. Những chi tiết ấy không ai đủ sức tưởng tượng ra được, chỉ có chính những người lính trực tiếp trải nghiệm mới có thể kể lại được. Đây thật sự là những “mỏ vàng” mà cụ dành cho người sáng tác như tôi.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch, cụ Thân Văn Nhã tiếp tục chiến đấu ở biên khu thuộc Tỉnh đội Hải Ninh cho đến khi kháng chiến chống Pháp thành công. Tiếp đó, cụ xin chuyển ngành, theo học tại trường Đại học Y Hà Nội và công tác tại Bệnh viện Bạch Mai. Những kinh nghiệm được tích lũy từ sách vở và qua thực tiễn làm việc đã giúp cụ lĩnh hội được nhiều bài thuốc tinh hoa của dân tộc và trở thành một thầy thuốc giỏi. Cụ không những hiểu biết uyên thâm về cơ thể người cũng như công dụng của vô số dược liệu trong đông y mà còn đặc biệt nổi trội với đôi “bàn tay vàng” trong lĩnh vực châm cứu.

Thật vinh dự cho tôi khi Biên khu Việt Quế ra đời đã được dư luận đánh giá tích cực và giành được một số giải thưởng văn học. Điều đó vừa là niềm vui, song cũng là động lực giúp tôi nỗ lực hơn nữa đối với đề tài chiến tranh cách mạng và vẻ đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Được cảm nhận, chia sẻ, rung cảm trước những chiến công của tiền bối cũng như chiến công của đồng chí, đồng đội hôm nay và chuyển hóa thành những trang văn, ý thơ, đối với tôi là một niềm tự hào. Những nguyên mẫu mà tôi có may mắn gặp gỡ đều là những người có công lớn với đất nước, với dân tộc, nhưng sau này sống rất bình dị. Cuốn sách của tôi như một lời tri ân của thế hệ trẻ hôm nay đối với những con người đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc.

P.V.A

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)