. CHÂU LA VIỆT
Năm 1970, từ mặt trận Lào, tôi được gọi về dự một trại viết quân đội do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và Tổng cục Hậu cần tổ chức tại công trường 800. Năm ấy tôi là anh binh nhất 19 tuổi, lần đầu tiên được tham gia một trại viết quân đội, cũng là lần đầu tiên được gặp nhà văn Đỗ Gia Hựu, với gương mặt đôn hậu, vai đeo quân hàm đại úy, tay xách chiếc cặp may bằng vải bạt… cùng ông Vũ Sắc thay mặt nhà xuất bản đến hướng dẫn cho trại viết.
Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác. Tôi được thầy Đỗ Gia Hựu trực tiếp hướng dẫn. Thú vị là ngay từ buổi tiếp xúc đầu tiên, ông đã làm tôi thấy thân thiết như cha con, chú cháu trong một gia đình, chẳng chuyện gì về gia đình, hoàn cảnh và đời sống chiến sĩ của tôi mà ông không quan tâm. Và cũng chính từ những tâm sự này, tôi đã hình thành nên một đề cương văn học để sáng tác trong trại viết. Đấy là đề cương tiểu thuyết Những tầng cây săng lẻ. Khi nộp đề cương này cho ông, thấy ông chỉ tủm tỉm: “Ừ cứ viết đi, nhưng có lẽ đây chỉ là một truyện ngắn.”
Ông quả là một ông thầy già dặn. Ngay sau buổi ấy, tôi chong đèn viết như điên. Tuổi 20 ai mà chẳng hăng, lại thêm nữa về trại viết được “cơm no rượu say” mà chưa bao giờ đời chiến sĩ mặt trận chúng tôi được hưởng như thế, nên tôi cứ thức hết đêm này qua đêm kia toét cả mắt mà cày. Ấy vậy mà chỉ được đến trang thứ 30 thì đúng là hết truyện, khép lại là vừa…
Cũng chính từ trại viết ấy, tôi trở nên thân thiết với ông, và còn được ông mời lại nhà chơi…
Đấy là một căn hộ nhỏ trong một chung cư ở phố Trần Quốc Toản (Hà Nội). Nhỏ thôi, nhưng ngay từ buổi đầu tới, tôi đã cảm nhận được là chật mà hóa rộng, bởi chủ nhân có tấm lòng rộng mở. Căn hộ của ông luôn đầy khách khứa, đêm hè oi bức cũng như đêm đông gió lạnh, lúc nào cũng có khách ngồi thăm hỏi, tâm sự, giãi bày… Đó có khi là những nhà văn quân đội tên tuổi, là những cây viết trẻ ở những đơn vị trong toàn quân, là những nhà văn dân sự viết về đề tài chiến tranh, lại có cả những nhà văn có đôi chút phiền toái về lí lịch..., tất cả tìm đến ông như một sự nương tựa, chở che. Có những người đến cậy nhờ ông in sách, viết giới thiệu tác phẩm, cũng lại có người chỉ đến để tâm sự về văn chương, về thế thái nhân tình… Sau này tôi mới hiểu cái tình trong ông thật lớn. Trách nhiệm đã đành, mà tình với con người, nhất là với người cầm bút, dù trong hay ngoài quân đội, đều được ông nâng niu, trân trọng, chỉ bảo, giúp đỡ ân cần…
Chính bởi thế, đã nhiều tác phẩm văn học xuất sắc về người lính được xuất bản trong thời gian ông là biên tập viên, rồi là Trưởng phòng Biên tập văn nghệ của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Cũng giai đoạn này, nhiều nhà văn áo lính trưởng thành nhờ sự nâng đỡ, “lăng xê”, giới thiệu của ông. Chẳng ai nhớ được những năm tháng chiến tranh ấy, ông đã cùng các cộng sự của mình như Vũ Sắc, Ngọc Tự, Minh Giang đi mở trại, hoặc đến với bao trại viết quân đội, hướng dẫn cho bao người cầm súng cầm thêm cây bút, đọc và biên tập bao nhiêu trang bản thảo còn khét lẹt mùi thuốc súng để có những tác phẩm văn học xuất sắc về chiến tranh như tiểu thuyết của Hồ Phương, Xuân Thiều, trường ca của Hữu Thỉnh, truyện của Nguyễn Trí Huân, Triệu Bôn, thơ của Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng… cùng với tác phẩm của rất nhiều cây bút văn học trẻ khác. Nói thật những ngày ấy, có được một tác phẩm in ấn ở Nhà xuất bản Quân đội là niềm mơ ước, là hạnh phúc của bao người cầm bút, không chỉ là một giá trị văn học, mà còn là một bệ phóng trong sự nghiệp văn chương… (Cũng phải nói thêm rằng, có cả những cây bút tưởng chừng đã không thể gắng gượng được nữa vì tì vết, nhờ sự nâng đỡ của ông, đã trở lại với con đường văn học và có những tác phẩm hữu ích, được xuất bản bề thế, trang trọng…)
Ở trại viết năm ấy, truyện ngắn Những tầng cây săng lẻ của tôi, với sự kèm cặp của thầy Đỗ Gia Hựu, được giải thưởng của trại viết, và qua sự giới thiệu đầy uy tín của ông, đã được in trang trọng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đó là hạnh phúc lớn với một binh nhất mới cầm bút như tôi. Năm 1980, trong điều kiện giấy má in ấn rất khó khăn, tôi lại được ông ưu ái in cho tập kịch Những bạn trẻ của tôi ở Nhà xuất bản Quân đội, mà nói thật, cái ngữ viết kịch như tôi chưa chắc đã xứng là học trò của những nhà viết kịch quân đội như Đào Hồng Cẩm, Tào Mạt, Hoài Giao, Kiều Kim Trùy, Chu Nghi, Sỹ Hanh… Tôi được ưu tiên có lẽ vì là chiến sĩ trẻ ở đơn vị chiến đấu, những trang viết còn nóng bỏng hơi thở mặt trận.
Năm 1974, tôi về học khoa Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội. Tôi có người bạn thân là Lê Huy Hòa, nguyên là một phi công, cũng về học. Hòa hiền lành, ít nói, học không thật giỏi nhưng chịu thương chịu khó. Khi tốt nghiệp, Hòa được điều đi dạy ở một tỉnh xa phía Bắc, trong khi anh lại rất thiết tha trở lại quân đội phục vụ. Tôi dẫn Hòa đến gặp nhà văn Đỗ Gia Hựu, để giới thiệu Hòa về với Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (việc này Hòa đã kể trong một hồi kí in trong tập kỉ yếu của nhà xuất bản). Bằng tất cả tấm lòng ưu ái với thế hệ trẻ, ông đã vượt qua rất nhiều nhiêu khê về thủ tục hành chính để kiên quyết tạo điều kiện cho Hòa về nhà xuất bản, không những thế, kèm cặp rèn giũa cho Hòa thành một biên tập viên văn nghệ bản lĩnh, đưa sang Nga làm chuyên gia xuất bản với quân đội bạn, và sau này còn mai mối, tác thành, kiêm đại diện họ nhà trai cưới vợ cho Hòa (sau này Lê Huy Hòa là Giám đốc Nhà xuất bản Lao động). Ông đặc biệt yêu những người lính trẻ, những cây bút trẻ đang ở mặt trận. Ông chăm chút cho họ không chỉ từng trang viết mà còn cả cuộc sống. Nhà văn Khuất Quang Thụy kể: “Năm 1975, sau khi miền Nam giải phóng, tôi được về phép thăm nhà và mẹ tôi đã kể lại rằng: Cuối năm 1972, vào những ngày máy bay Mĩ đang ném bom Hà Nội bỗng một hôm có mấy ông cán bộ to của Trung ương quân đội tìm đến nhà ta. Các ông ấy đưa cho mẹ một ít tiền và nói rằng đó là tiền bút gì đó của con. Thế là cả nhà òa lên khóc! Mẹ nghĩ, có lẽ con chết rồi nên các ông ấy mang tiền tuất về cho mẹ... Mãi sau này tôi mới biết đó là anh Đỗ Gia Hựu và các anh ở Nhà xuất bản Quân đội nhân dân sau khi in kí sự Lửa và thép trong cuốn Cửa khẩu vì biết tôi đang chiến đấu ở Tây Nguyên nên các anh đã lặn lội lên tận Sơn Tây để mang tiền nhuận bút tới cho gia đình.”
Nhiều người biết đoạn đầu đời riêng của nhà văn Đỗ Gia Hựu không mấy suôn sẻ. Đã hai người phụ nữ đi qua cuộc đời ông… Nhưng dù vậy, ông luôn nghĩ tới việc chăm lo hạnh phúc cho mọi người. Không chỉ với Lê Huy Hòa nhờ có ông mà lấy được cô giáo Ngà đảm đang, mà cả Nguyễn Trí Huân, người ông coi như đứa em ruột thịt, những năm anh Huân đi chiến trường, ông không chỉ lo những trang viết, mà sau này cũng chính là người đã đứng ra mai mối dựng vợ cho anh Huân. Rồi khi Lê Lựu hàn gắn vết thương lòng, rồi đôi vợ chồng Chu Lai - Vũ Thị Hồng... cũng đều ít nhiều có phần góp sức từ lòng yêu thương của ông…
Cái tình của ông thật lớn, và cũng bởi thế, ông đã được đền đáp bằng lòng yêu quý chân thành của tất cả những nhà văn già hay trẻ, trong và ngoài quân đội, của những đồng nghiệp tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân như Lữ Giang, Tạ Hữu Yên, Vũ Sắc, Ngọc Tự, Kiều Kim Trùy, Hồng Duệ, Vũ Thị Hồng, Trần Nhương, Dương Duy Ngữ, Nguyễn Quang Tính, Trần Chiến… và nhất là của cô Thuận, một kĩ sư thủy lợi dịu dàng đã gắn bó và chăm sóc ông bằng một trái tim vàng hơn nửa cuộc đời ông sau này…
Tôi cũng hay “bố bố con con” với ông từ thuở ông dạy dỗ tôi ở trại viết, coi ông như một người cha của mình. Nhưng bởi ở xa ông, nên phận làm con của tôi không bằng Bách, Bích hay Lê Huy Hòa… Những người em của ông như các anh Nguyễn Trí Huân, Trần Nhương đã chăm sóc ông hết sức chu đáo, như ruột thịt trong nhà. Một dịp đi dự Đại hội Hội Nhà văn, anh Nguyễn Trí Huân nhắc “Đến thăm cụ Hựu chưa” làm tôi nhói lòng. Phần mới ra Hà Nội, phần từ hôm Lê Huy Hòa “mất tích”, ra Hà Nội, muốn đến thăm ông không ai đưa đi, mà nghe nói ông cũng đã chuyển nhà rồi, không còn ở cái phố nhà binh gần nhà Đỗ Trung Lai nữa, thú thật tôi chưa biết lần mò thế nào để đến thăm ông.
Tôi nhớ một lần, anh Trần Nhương điện vào bảo tôi rằng: “Cụ Hựu ốm nặng khéo nguy cậu ạ!” Thế là tôi nước mắt nước mũi đầm đìa, nửa đêm bật dậy viết một bài báo đầy xúc cảm về ông với bao kỉ niệm của những tháng ngày quân đội. Viết xong, điện ngay cho biên tập viên Báo Văn nghệ, bảo em in gấp cho anh bài này nhé, ông ấy là như thế như thế, là bố nuôi của anh, nhất lại là anh nuôi của anh Nguyễn Trí Huân... Bài báo lên trang ngay, hôm sau kịp đưa vào viện để con cháu đọc cho ông nghe. Nghe nói lúc ấy ông xúc động lắm, nước mắt rơm rớm (chắc ông cảm cái tình của lũ em nuôi, con nuôi luôn nghĩ tốt đẹp và yêu thương ông).
Thế nhưng sau này, như con dâu ông kể lại: Nghe xong bài báo, bố em nằm trấn tĩnh một lúc, rồi bảo mẹ em cho uống sữa, rồi vươn vai bật dậy, lừng lững đòi ra viện về nhà. Bố bảo: Chúng nó tưởng tao sắp... đi hay sao mà viết lâm li thế. Tao làm sao đã đi được. Các con cho bố về nhà ngay, rồi hẹn chúng nó đến chơi... Thế mà rồi ít ngày sau ông được về nhà thật…
Văn chương người lính chắc chắn không bao giờ quên ông. Một lần, ở trại viết đề tài chiến tranh và lực lượng vũ trang do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức ở Đà Lạt (2020), tôi tâm sự với anh em rằng: Có lẽ duy nhất một người cầm bút tròn nửa thế kỉ vẫn tham dự những trại viết do Nhà xuất bản Quân đội tổ chức từ buổi đầu đến nay là tôi. Và người thầy mà hôm nay, ở trại viết này, tôi xin được tôn vinh, người thầy đầu tiên dìu dắt chúng tôi bước vào văn chương, vẫn theo bước chân hành quân của chúng tôi, dạy dỗ chúng tôi không chỉ biết cầm súng mà còn biết cầm bút, chính là nhà văn, Đại tá Đỗ Gia Hựu, Trưởng phòng Biên tập Nhà xuất bản Quân đội nhân dân năm xưa. Những trang sách của một thời kháng chiến luôn lưu giữ bóng thầm mà rực rỡ của ông. Cả một thế hệ những người lính luôn lưu giữ bóng thầm mà rực rỡ của ông trong trái tim mình.
C.L.V
VNQD