Thủ lĩnh băng vịt đồng là truyện dài của tác giả trẻ Lê Quang Trạng vừa được Nxb Kim đồng ấn hành. Vỏn vẹn 135 trang, tác phẩm miêu tả vừa cận cảnh vừa toàn cảnh nuôi vịt chạy đồng của người dân miền sông nước Tây Nam Bộ; chứa đựng đủ dư vị cuộc sống, đan xen giữa ảo và thực, ngọt ngào và chua chát, hạnh phúc lẫn xót xa… Tựa như một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, tác phẩm khiến người đọc không khỏi cảm xúc bùi ngùi, thương thương. Thương cho phận nhà nông rong ruổi. Thương cho những phận đời đơn độc. Họ sống nổi trôi theo mùa vụ, theo con nước và theo cả “thế giới gia cầm”. Cuốn sách được viết với giọng văn vui tươi, trẻ trung mà đượm tình, dù người lớn hay trẻ nhỏ cũng khó lòng rời mắt khỏi “món ăn tinh thần” độc đáo này.
Sách do Nxb Kim đồng ấn hành quý 1/2019
Thoạt đầu, cứ ngỡ Thủ lĩnh băng vịt đồng được viết riêng cho thiếu nhi, với kết cấu theo motif truyện dân gian, không gian truyện sẽ quánh đặc mùi cổ tích. Cứ ngỡ truyện sẽ xoay quanh chú vịt “uy quyền” nào đó được tôn làm “sếp”. Nhưng bất ngờ thay, truyện dài này với hơn 20 mẩu chuyện nho nhỏ được kết nối chặt chẽ theo cuộc đời “du mục” của chàng thủ lĩnh tên Cua. Chàng ấy đích thị thuộc họ nhà ngỗng, một chú ngỗng tinh ý, khôn lanh, ân tình và trách nhiệm. Theo chân cuộc hành trình gian nan nhưng rất đỗi lý thú của ngỗng Cua, người đọc (cả người lớn và trẻ nhỏ) sẽ có được những trải nghiệm mới mẻ, đáng nhớ.
Như viết tiếp nối cho những câu chuyện ngụ ngôn về giống loài, tác giả khéo léo mở đầu tập truyện bằng một nghi vấn nhỏ, hết sức lý thú về sự “võ đoán” mà con người thường áp đặt cho mỗi loài vật. Cách dẫn nhập lôi cuốn sự tò mò, hiếu kỳ tìm hiểu, khám phá của người đọc. Tác giả để “nhân vật chính” tự giới thiệu hay nói đúng hơn là “tự bạch” theo cách của trẻ con. Vì sao vậy? Vì nhân vật chính đương lúc là “ngỗng con” cơ mà. Lúc này “cậu ta” chưa được gọi là thủ lĩnh.
Thông qua ngôi kể “tôi”, bức tranh đời sống của chú ngỗng Cua dần hiện rõ. Chú đã phải ngậm ngùi tách đàn từ ngày bé tí ti, từ đó đời sống của chú gắn với số phận chênh vênh, bấp bênh và bất định của người nuôi vịt chạy đồng. Vì những đặc tính tinh khôn bao đời mà mặc nhiên ngỗng Cua được phong làm thủ lĩnh, với nhiệm vụ động viên mấy chị vịt đẻ say; giữ bầy đàn nguyên vẹn, không để nhập sang bầy vịt khác hay không để bị trộm mất con vịt nào. Tác giả khéo mượn lời nhận định của ông bà chủ, của đám bạn vịt để ca ngợi, tô vẽ thêm bản tính sống có tình có nghĩa vẹn vẽ trước sau của “nhân vật chính” - đôi vợ chồng ngỗng Cua - những con vật biết suy luận đủ thứ trên đời, thường triết lý bằng giọng điệu hết sức cảm thông và sâu sắc: “Loài người nuôi mình, thì mình cũng phải nuôi lại họ”. Góc nhìn thấu đáo này cũng là triết lý nhân sinh về lòng biết ơn, sự thủy chung xuyên suốt tác phẩm.
Dễ thấy các câu chuyện truyền thuyết về loài ngỗng, những câu chuyện lúc trà dư tửu hậu… được ý vị lồng vào truyện đã góp phần củng cố thêm lòng tin của độc giả. Kiểu như vừa đọc vừa gật rồi vỗ đùi cái phạch: “Ừ, đúng quá đi chứ!”. Ngỗng màu trắng tinh nè, rõ ràng nó được làm từ cục bột của Thượng đế; ngỗng cứ kêu oang oác vì tánh hơn thua đủ của ngày xửa xưa; ngỗng chả bao giờ ăn tép vì lòng biết ơn;... và ai “giả đò trộm” cái trứng ngỗng lúc bầu bì thì ăn vào sẽ sinh được đứa con… “khôn như ngỗng”. Vì truyện được viết theo lối ngụ ngôn, nên những loài vật từ ngỗng, vịt, chó… đều có một cái tên, đều được đặc tả chân dung, có tính cách riêng và mối quan hệ gắn bó sinh tồn cùng nhau. Ở đó, ngỗng Cua là “thủ lĩnh”, ngỗng Ốc là “vợ nhân từ”, chó Lu là “vị chủ tướng”, vịt Cồ là trưởng bối, vịt Mái Già tử tế... Chúng có thể đối đáp, có thể nghe hiểu tiếng người, có thể suy nghĩ và cảm nhận sáng suốt và chu đáo. Chúng sống cuộc đời rày đây mai đó cùng ông bà chủ nên cứ phải bùi ngùi: “Kiếp tha phương thì lấy đâu xứ sở mà bỏ?”. Ít nhất có đến năm lần ngỗng Cua cùng tình nhân mà sau này là vợ - ngỗng Ốc - phải theo chân ông bà chủ lang bạt hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Sau này bà chủ cũng như những người vợ tạm bợ khác của ông chủ, cũng bỏ đi biệt xứ, lúc này vai trò “chỗ dựa tinh thần” của ngỗng Cua càng đặc biệt hơn. Cuộc sống dưới ngòi bút Lê Quang Trạng có khi thật bình yên, có khi khắc nghiệt đến nghẹt thở. Sự khắc nghiệt của sự chia lìa và thiếu thốn tình cảm giữa đồng loại với nhau.
Và chính trong sự thiếu thốn ấy con người với vật nuôi cũng nương tựa nhau mà sống - sống thuận theo tự nhiên. Mỗi cánh đồng đi qua đều để lại nỗi khắc khoải. Cũng bởi nơi ấy đã nuôi dưỡng những con người lao động phóng khoáng mà hiền hòa, ân nghĩa. Nơi ấy con người xem vật nuôi là bạn bè, họ nói chuyện bỡn cợt bông đùa với vật nuôi, họ “đau đứt ruột” khi bắt chú ngỗng nhỏ bé tên Cua phải rời xa tổ ấm, họ cảm thương khi thấy ngỗng Ốc vì ấp trứng mà đói rã rượi rồi chết lịm dần…, họ gọi chúng thân mật bằng “con”, “hai đứa bây” như thể đang giao tiếp với con người. Hãy lần nữa cùng tìm về các địa danh Đồng Chó Ngáp, Kinh Đào, Kinh Xáng - những nơi mang trong mình từng hơi thở, dáng dấp đặc trưng của vùng sông nước Tây Nam Bộ. Hãy cùng lần nữa rảo bước trên cánh đồng Gió, cánh đồng Trúng Lúa, cánh đồng Người Đi - những cánh đồng lúa sau mùa thu hoạch còn trơ gốc rạ, là nơi mà “mấy nóc trại vịt mọc lác đác như nấm rơm” được dăm ba tháng rồi đi. Đời là những chuyến đi, đến cả con vật cũng phải luyến lưu nơi mình qua, bởi vậy nên thủ lĩnh Ngỗng đã đặt tên cho những cánh đồng với những cái tên trìu mến như thế.
Không gian truyện thay đổi liên tục từ rộng đến hẹp, từ nhỏ sang lớn. Có khi là cả cánh đồng mênh mông như tấm thảm xanh trải dài ngút ngát, khi là con kinh lượn lờ trôi miên man, lúc thì trên cái gò đất nhô lên giữa cánh đồng, lúc thì dưới sàn ghe, sàn nhà, trong cái chuồng, cái trại hay nhỏ hơn nữa là khi “tạm cư” trong cái diệm nước, cái bội... Dù không gian nào thì người đọc cũng dễ nhận ra cảnh sống bình yên, sum vầy và chan hòa của các con vật nuôi luôn gắn bó với con người. Có thể không gian này, cảnh sống này nếu được xây dựng thành phim truyện hoạt hình cho trẻ thì sẽ rất “ăn khách” và thu hút, vì nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố dễ thương, gần gũi là điểm cộng đầu tiên, kế đến là ý nghĩa “làm giàu kiến thức về nông thôn”, bồi dưỡng những giá trị nhân văn, giúp trẻ khám phá, thêm hiểu và yêu hơn thế giới xung quanh mình. Tuy nhiên, tính nhân văn chiều sâu, nhiều triết lý thâm thúy và ý nghĩa sâu xa thì có lẽ người lớn mới cảm nghiệm trọn vẹn. Tài của tác giả là ở chỗ đó, truyện thiếu nhi nhưng không chỉ dành riêng cho thiếu nhi, bởi người lớn cũng cần yêu thương trắc ẩn, cần tìm về những giá trị tinh thần tốt đẹp dành cho nhau.
Trên cánh đồng chữ Thủ lĩnh băng vịt đồng, “hạt giống” nào cũng chắc. Cả tập truyện chứa đựng đủ dư vị, thanh âm và đặc trưng của cuộc sống miền sông nước. Tác giả hiểu cặn kẽ tập tính, đặc điểm sinh học của từng loài. Loài vịt sẽ đẻ trứng say khi được ăn no đủ và được vẫy vùng tắm mát, còn khi được thay lông cánh thì 20 ngày sau vịt sẽ đẻ rộ. Loài ngỗng khi ấp trứng thì nhịn đói nhịn khát đợi đến ngày trứng nở… Ngôn ngữ truyện bình dân, bình dị, dễ thấy những phương ngữ gần gũi với đặc điểm vùng miền: “ốm nhom như con cò ma”, “mừng húm”, “rất rành”, “la khơi”, “xiểng niểng”, “mắc gì”, “khơi khơi”, “cũng bộn”, “nổi xung thiên”, “non xèo”... Lối đối đáp của những con vật thì hóm hỉnh, tếu táo nhưng cũng có khi “già dặn” quá đỗi. Những chi tiết truyện hài hước, tự trào mà ý vị, tự nhiên.
Tác giả Lê Quang Trạng sinh năm 1996, hiện sống và viết tại An Giang
Những cuộc đi ăn “lạ thường”, không trọn vẹn gần cuối truyện như điềm báo về sự tan rã sớm muộn. Bà chủ cũ mất trong một lần chăn vịt bị sét đánh, những bà chủ mới “chắp vá” tạm bợ với ông chủ cứ lần lượt khoác áo ra đi không lời từ biệt. Ông chủ thì ngày một già yếu, bệnh dịch “hoành hành” đàn vịt trong khi người con trai vừa trở về đoàn tụ cùng ông đã không thể “duy trì” cái trại vịt ngày cũ. Ngay lúc nỗi buồn chìm ngập, những đoạn đối thoại, tự vấn đã làm “sáng” lên những giá trị nhân sinh. Ông chủ cố níu giữ bầy vịt nên hết lời phân trần: “Xưa giờ nghề nuôi mình thì giờ mình phải nuôi lại lấy nghề”. Còn đám vịt, ngỗng tỉ tê: “Mấy nay tụi vịt nghe ông chủ ho, tụi nó thấy bất an quá nên đẻ trứng non xèo”, “Đời tự nhiên buồn hiu bây?”…
Tác phẩm gửi gắm nhiều thông điệp thế sự mang tính chiều sâu. Từng câu văn được trau chuốt thật chỉn chu. Vỏn vẹn hai câu văn thôi đã phác họa cảnh sắc đậm chất Nam Bộ: “Lần này đồng trống khô ran, những gốc rạ đâm lên trời nhức mắt. Con kinh nằm vắt ngang cánh đồng chỉ còn một lạch nước nhỏ”. Mỗi mẩu chuyện nhỏ kết thúc gọn ghẽ, cô đọng đồng thời mở đường cho câu chuyện tiếp theo. Tác phẩm đúc rút nên nhiều bài học về nghĩa vợ chồng, tình yêu, tình bạn, tình đồng loại… và cả những bài học về tự nhiên, môi trường và cuộc sống. Đó là bài học về nguyên tắc “cùng chung sống”. Để chung sống hòa thuận và làm ông chủ vui lòng, đàn vịt hai ngàn một trăm mười sáu con (sau đợt dịch bệnh, con số này vơi đi gần một nửa) với gia đình nhà ngỗng và chú chó Lu luôn đùm bọc, bảo ban nhau. Đó là những đặc điểm tự nhiên, sự cân bằng hệ sinh thái môi trường sống (ví như bầy vịt hễ hôm nào được tắm mát thì sẽ đẻ rất say; cánh đồng nào nhiều ốc thì đồng nghĩa với việc nơi ấy nhiều lúa lép…). Đó là sự sáng tạo vượt khó (trên đường đi tìm bốn chú vịt tơ trốn đi chơi, nhân vật chính ngỗng “Cua” đã lấy mỏ đánh dấu phía đầu vết chân để khỏi phải lạc đường). Và bài học lớn nhất là bài học về đức tính nhẫn nại, tình yêu thương: “Không vinh quang nào mà không phải trả giá bằng những khó khăn và thử thách, bằng lòng can đảm và trí thông minh…. còn phải có một trái tim yêu thương” - lời bộc bạch chân tình của chàng ngỗng tên Cua.
Tình yêu ấy, đến cuối truyện vẫn được thể hiện chân thành ngay cả khi những chú vịt, chú ngỗng “lần lượt sang tay chủ mới” sau một trận đại dịch. Gia đình Ngỗng khó xử: “Bọn tôi nhìn ông chủ rưng rưng… Bỏ bầy thì không nỡ. Theo bầy bỏ ông chủ thì cũng không đành”. Cuối cùng, những chú ngỗng quyết chọn “hướng về nhà ông chủ cũ, cũng là hướng về phía đồng Chó Ngáp”. Nhưng kết thúc truyện, đâu đó văng vẳng giọng nghẹn ngào của người nông dân cả đời theo nghề chăn vịt chạy đồng: “Không biết thằng Cua có dắt hai đứa nhỏ về được nơi muốn tới hay không”. Một cái kết mở sâu lắng, đượm buồn.
HUỲNH CAM
VNQD