Đỗ Quang Nghĩa hiện sinh sống và làm việc tại Cộng hòa Liên bang Đức trong lĩnh vực kĩ thuật. Anh không phải là một tác giả văn học chuyên nghiệp, không theo đuổi con đường sáng tác văn chương như một nghề nghiệp, nhưng lại tìm đến thơ và làm thơ từ khi còn rất trẻ, như một hình thức đối thoại nội tâm, nơi mà cá nhân có thể lưu giữ cảm xúc, kí ức và bản sắc dân tộc trong bối cảnh sống xa xứ. Chính đặc điểm “ngoại biên” này, viết từ ngoài biên giới văn chương chính thống, khiến thơ ca của Đỗ Quang Nghĩa trở nên độc đáo với giọng điệu thơ giản dị, không tô vẽ, nhưng tinh tế và có khả năng chạm sâu vào cảm xúc người đọc.
Người làm thơ sống cùng hai nền văn hóa
Tập thơ Như những mùa thu ra mắt năm 2024, được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, là tập thơ đầu tay của Đỗ Quang Nghĩa. Đây không chỉ là một tập hợp văn bản trữ tình, mà còn là một dạng nhật kí thơ ca bản thể, đánh dấu sự hiện diện của một người Việt xa xứ trong không gian ngôn ngữ quê nhà. Các bài thơ trong tập thơ hầu như không có nhan đề, phần lớn được ngắt đoạn bằng kí hiệu hoa thị (*), tạo cảm giác như những dòng hồi ức vụn rời, phi tuyến tính, nhưng lại thống nhất về cảm xúc và giọng điệu. Cách trình bày này tạo hiệu ứng trực tiếp với người đọc như thể người làm thơ từ chối cái khung khái niệm cố định, để hướng đến sự liên tục trôi chảy của cảm xúc và ý niệm. Không có tuyên ngôn thẩm mĩ, không có tuyên bố bản sắc bằng những lời đao to búa lớn, nhưng tập thơ vẫn hiện lên như một tiếng nói nhân bản, trầm lặng và bền bỉ, giữa những ánh xạ muôn màu từ những biến động văn hóa, lịch sử và đời sống đương đại đến với mỗi thân phận con người.
Có thể xem tập thơ Như những mùa thu là một “diễn ngôn lưu cư” hay “diễn ngôn vô xứ”, nơi người viết vừa diễn đạt kinh nghiệm cá nhân, vừa định vị lại bản sắc của mình trong điều kiện sống ngoài quê hương. Theo cách nhìn từ lí thuyết di dân, Stuart Hall cho rằng bản sắc văn hóa của người di dân luôn vận hành trong trạng thái “không ngừng kiến tạo lại”, được hình thành từ những kí ức bị đứt đoạn với quê nhà và sự mặc cả, giằng xé hay thỏa hiệp với những chuẩn mực mới. Paul Gilroy nhấn mạnh đến “ý thức song trùng” (double consciousness) khi người di cư sống trong không gian văn hóa kép, một bên là nền tảng cội nguồn, bên kia là không gian tồn tại hiện tại. Còn Homi Bhabha đưa ra khái niệm “third space”, có nghĩa là “không gian trung gian”, là nơi bản sắc cá nhân không cố định, mà được định hình qua sự lai ghép và thương lượng.

Tập thơ "Như những mùa thu" của Đỗ Quang Nghĩa.
Như những mùa thu là tiếng nói thế giới nội tâm của một chủ thể trữ tình không gào thét, không phản kháng, không bi lụy, nhưng lặng lẽ ghi lại những vết xước thời gian và thân phận con người trong một thứ ngôn ngữ tinh giản và thấu cảm. Tâm thế của người làm thơ không chỉ là sự hoài nhớ về quê hương, mà còn là sự đối thoại liên tục với chính mình trong một không gian bị chia tách giữa nơi ở và nơi thuộc về.
“Ta mang nỗi buồn viễn xứ
Đi trong nỗi buồn mùa thu”
Người làm thơ trong Như những mùa thu hiện lên như một kẻ xa xứ sống tỉnh táo, sống âm thầm giữa những mùa thu châu Âu và cố giữ cho mình một đời sống bên trong không vỡ vụn. Không như nhiều giọng thơ xa xứ mang nặng cảm thức bị lưu đày hay mất mát quốc gia, Đỗ Quang Nghĩa không chọn đứng ở lập trường kháng cự hay đối nghịch, cũng không chọn nuối tiếc hay mất mát, mà chọn viết bằng lòng biết ơn âm thầm đối với kí ức và sự sống.
“Tôi sưởi ấm lòng mình
Bằng những câu thơ buồn và lạnh”
Câu thơ là biểu hiện rõ nét cho một quan niệm sống: thơ ca không xoa dịu được cuộc đời, nhưng giúp cuộc đời không khô cạn và bớt sự lạnh lẽo. Đó là sự lựa chọn sống chung với thời gian và không gian mới, thay vì than thở hay phủ định nó.
Đỗ Quang Nghĩa sống ở Đức, viết bằng tiếng Việt, mang trong mình kí ức Việt Nam nhưng đang tiếp nhận thực tại phương Tây. Chính trạng thái đó khiến giọng thơ của anh mang một bản sắc đặc trưng của chủ thể đa tầng văn hóa, là một người luôn ở trong thế giới này nhưng không hoàn toàn thuộc về một nơi cụ thể nào. Đó là tâm thức sống cùng hai nền văn hóa, không từ bỏ cố hương, cũng không đồng hóa với nơi mình đến, không phủ nhận, cũng không mâu thuẫn. Đây là biểu hiện điển hình của không gian bản thể thứ ba (third space) mà Homi Bhabha đã đề xuất, nơi các nền văn hóa không đối kháng mà được thỏa thuận, thương lượng, hòa nhập, tái định vị bản sắc thông qua những hành vi giản dị của đời sống thường nhật.
Có lẽ Đỗ Quang Nghĩa làm thơ không phải vì “trở thành nhà thơ”, mà vì không muốn đánh mất phần bản sắc, nhân tính của con người mình. Khi ấy thì thơ ca trở thành một hình thức cư trú tinh thần của người di dân.
Cuốn nhật kí bản thể kể chuyện cá nhân và cuộc đời
Trong bối cảnh sống xa xứ, nơi ngôn ngữ bản địa không còn là nơi trú ẩn tự nhiên, thì tiếng Việt qua thơ, có thể trở thành nơi giữ lại bản thể cá nhân. Việc kể lại những câu chuyện nhỏ bằng tâm trạng giúp nhà thơ duy trì liên kết cảm xúc với quá khứ, với gia đình, với chính mình:
“Con gái ta bé nhỏ,
thiếu mẹ, vắng cha
nào đã biết gì”.
Tạo ấn tượng đặc biệt là những bài viết cho con cái, như:
“Cha mong con sau này
Gặp được một phụ nữ
Yêu con
Như mẹ từng yêu cha.”
Tình phụ tử ấy được như đặt giữa hai mùa, mùa đông của sự cách biệt và mùa xuân của hi vọng tái sinh. Nó mở ra một không gian thơ ca đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, vừa riêng tư vừa phổ quát.
Như những mùa thu gồm những bài thơ tác giả làm khi còn rất trẻ, sinh sống ở Việt Nam và những bài thơ được hình thành trong hoàn cảnh đang sống giữa hai không gian văn hóa, một bên là quá khứ Việt Nam thấm đẫm hoài niệm và liên kết máu thịt; bên kia là hiện tại châu Âu hiện đại, lạnh giá và xa lạ. Trong trạng thái đó, thơ ca không chỉ trở thành một hình thức cư trú tinh thần, giúp người viết vừa ghi lại dấu vết của bản thể cá nhân trong dịch chuyển, vừa gìn giữ những miền cảm xúc sâu kín mà đời sống thường nhật không thể chứa đựng, mà còn là một kiểu nhật kí để gửi gắm tâm trạng. Làm thơ, với Đỗ Quang Nghĩa, không phải là hành vi sáng tạo của nghệ sĩ, mà là chỉ một nhu cầu được sống và viết, âm thầm và lặng lẽ như những mùa thu đi qua đời mình.
Thơ của Đỗ Quang Nghĩa không vận hành theo cấu trúc kể chuyện có mở đầu - giữa - kết của thơ ca hiện đại, cũng không bộc lộ cảm xúc mãnh liệt theo kiểu thơ trữ tình cổ điển. Thay vào đó, mỗi bài thơ trong Như những mùa thu giống như một mảnh đời được gợi nhắc, một khoảnh khắc được ghi lại, không vì mục đích kể chuyện, mà vì mong muốn giữ lại một trạng thái tồn tại nhất định bằng ngôn từ. Đây là hình thức thơ mà lí luận văn học hiện đại gọi là “tự sự trữ tình” (lyrical narrative), tức là tự sự bằng cảm xúc, ghi chép bằng tâm trạng. PGS.TS. Đào Tuấn Ảnh trong lời nói đầu tập thơ đã gọi đây là “một thứ trường ca không theo thể loại truyền thống, vì trong đó sử thi và trữ tình hòa kết với nhau, bổ sung cho nhau tạo thành một thế giới nhiều chiều của nhân vật”. Người viết không chỉ là nhân vật trữ tình, mà còn là nhân chứng, người kể chuyện, người đối thoại với chính mình, là “một bản thể hai diện mạo” giữa thời đại đứt gãy và viễn xứ.

Tác giả Đỗ Quang Nghĩa.
Mỗi bài thơ ngắn trong tập giống như một vi bản (micro-narrative), một đoạn mảnh đoạn nhỏ trong đời sống, không hoàn chỉnh nhưng đủ để hình dung một tâm thế. Ví dụ như đoạn thơ sau:
“Anh trở lại nơi ấy mùa thu
Trời rất xanh và mây rất cao
…Đã sống lại những ngày say đắm
Mênh mang ngàn nhớ thương”
Bài thơ này là một ví dụ điển hình của trữ tình tự sự: có nhân vật (anh), có thời gian (mùa thu), có sự kiện (trở lại nơi ấy), và có cao trào cảm xúc (đã sống lại những ngày say đắm). Nhưng tất cả được thể hiện qua một giọng nói lặng thầm, không giải thích, không cụ thể, cũng chẳng rõ ràng.
Theo Boris Tomashevsky là một nhà lí luận văn học thuộc trường phái Hình thức Nga, thì tự sự trữ tình là phương thức trong đó sự kiện được thay thế bằng cảm xúc, và dòng thời gian được nội tâm hóa thành trạng thái. Cấu trúc bài thơ trên vì thế không tuân theo tiến trình mà vận hành như một dòng thời gian nội tâm.
Nhiều bài thơ trong tập chỉ có một hình ảnh hoặc một trạng thái, nhưng lại chứa đựng một lượng cảm xúc tiềm ẩn lớn:
“Ràng buộc với cái gì cũng sợ
Đành ràng buộc với tự do”.
Hai dòng thơ tưởng như đơn giản nhưng lại nói rất nhiều về sự cô đơn, về tâm trạng buông trôi của một con người sống trong môi trường xa lạ với mình. Đây không phải là mô tả, mà là “ghi chép khí hậu tâm lí”, như cách nhà lí luận văn học Milan Kundera nói về tiểu thuyết và điều đó lại càng đúng với thơ của Đỗ Quang Nghĩa. Chỉ là ghi chép lại, như một người lặng lẽ đi qua đời sống và không muốn lãng quên những mảnh ghép cuộc đời đang rơi rụng theo thời gian. Đây là kiểu thơ vừa trữ tình, vừa giàu chất tài liệu nội tâm, nơi cảm xúc chính là chất liệu để làm chứng nhân cho một đời sống không thành những tiếng ồn ào.
Ngôn ngữ trong thơ của Đỗ Quang Nghĩa do đó không theo quy ước, không nhằm truyền tải thông tin, mà trở thành phương tiện của lặng im, suy tưởng và đối thoại nội tâm. Roland Barthes đưa ra quan niệm phân biệt giữa “văn bản người viết” và “văn bản người đọc”, trong đó thơ hậu hiện đại thường trao quyền kiến tạo ý nghĩa cho độc giả. Do vậy độc giả đọc thơ Đỗ Quang Nghĩa, có thể tự kiến tạo những cảm nhận của mình qua ngôn ngữ thơ ca của tác giả.
Nghệ thuật thơ với cấu trúc ngôn ngữ hậu hiện đại
Thay vì một giọng thơ duy nhất, Đỗ Quang Nghĩa cho thấy tính đa thanh trong thơ của mình qua việc sử dụng linh hoạt các đại từ nhân xưng như tôi - ta - hắn - người - em - con.... Cách thay đổi đại từ liên tục khiến giọng thơ không cố định, tạo nên một dạng "bản ngã phân mảnh", vốn là đặc trưng của thơ hậu hiện đại.
Thơ Đỗ Quang Nghĩa sử dụng nhiều hình ảnh biểu tượng tự nhiên như lá vàng, chim, tuyết, gió, cát, ánh trăng, dòng sông… và những động từ thông thường, nhưng thường được làm mới trong một phức cảm ngữ nghĩa. Chẳng hạn:
“Sao không được như cát đùa trong gió
Giống nhau và giống nhau?
Sao phải sống nỗi buồn không giống ai
Sao phải đi đến cuối những chân trời?”
Những câu hỏi tưởng là điều vô lí nhưng lại rất đúng với cơ chế vận hành cảm xúc thơ ca trong lòng người đọc..
Dưới lớp ngôn ngữ giản dị có vẻ như không hề dụng công của tập thơ Như những mùa thu, là hệ thống liên văn bản dày đặc và kín đáo, với những liên tưởng đi từ thơ ca Nga, triết học phương Tây đến ca dao Việt Nam, từ đạo Phật đến Công giáo… Như những mùa thu cũng là một không gian chất chứa nhiều biểu tượng văn hóa và thiên nhiên từ “trăng”, “đào phai”, “chim sơn ca”, “chùa”, “Giêsu”…, đến “tượng đồng”, “hòn Vọng Phu”, “sông Hồng”, “Berlin”… Những hình ảnh này không đứng riêng rẽ mà đan xen trong một mạng lưới biểu tượng, nơi người viết dùng thơ ca như một công cụ để giao thoa, so sánh và cân bằng các hệ giá trị Đông - Tây mà bản thân sống cùng.
Như những mùa thu là tập thơ đầu tay nhưng đã mang độ chín. Chín trong sự trải nghiệm, trong khả năng biểu đạt cảm xúc sâu sắc mà không bi lụy, thông minh mà không lạnh lùng. Tập thơ không phô trương những kĩ thuật viết hiện đại, mà âm thầm khẳng định vị trí trong lòng người đọc bằng chính nỗi buồn, như lời đề từ:
“Những mẩu vụn thơ
Như những mẩu vụn bánh mì
không đủ nuôi ta sống
Nhưng dù sao...”.
Và như thế Đỗ Quang Nghĩa đã đi qua một hành trình thơ ca như hành trình đời sống, không ồn ào tuyên bố, nhưng đủ để lại dấu vết trong lòng người đọc, để lại một cảm thức về những mùa và người cùng gọi tên nhau ở nơi vô xứ.
“Không dám mong ngày mai hết buồn
Chỉ dám mong ngày mai bớt buồn
Được không?”
HÀ THANH VÂN
VNQD