. HOÀNG VŨ THUẬT
Cuộc chiến đã lùi xa, nhưng vết sẹo trên thân mình Tổ quốc vẫn còn bầm tím, nhức nhối: bốn chục năm ngồi hong mà áo chưa khô (Người đàn bà nhóm bếp). Bốn mươi lăm bài thơ trong Người đàn bà nhóm bếp là những hoài niệm trăn trở của một thời.
Cảm nhận tận cùng nỗi đau mất mát của chiến tranh để biết trân quý hơn cái giá của hòa bình: Đôi khi lối nhỏ không lọt bàn chân/ cỏ đan hình dây kẽm gai thời chiến trận/ dòng sông quánh đặc vòng vèo con lươn cổ đại/ chiếc thuyền không sóng chòng chành... (Đôi khi). Thế đấy, bom đạn đã tắt tiếng, nhưng con người vẫn có cái cảm giác chống chếnh chòng chành như người vừa mới bước chân lên mặt đất sau khi lặn ngụp trong bão táp sóng cồn. Chiến tranh như cỗ máy khổng lồ nghiến nát tất cả, để lại một màu trắng đến rợn người: Rặng tre bờ đê xác xơ trắng lạnh/ cái màu trắng phủ dày dòng sông phủ lên mái lá/ trắng như ngày ra đi mỗi người một ngả.../ những đứa con không cha/ những người đàn ông thèm khát đàn bà... Đọc những câu thơ mà ớn lạnh. Đây là nỗi thèm khát rất thật, rất người, rất nhân bản. Thái Hải không hề lên gân, giáo điều hay né tránh. Cái được của tập thơ chính là đã góp tiếng nói phản chiến theo cách riêng của mình. Bản ngã người cầm bút giúp tác giả nhìn sự vật nhiều chiều, vì thế thơ mang chở được thân phận, thức tỉnh con người, hướng con người đến thiện tâm, mơ giấc mơ về một thế giới đại đồng, hòa hiếu:
Bên kia đêm là ngày
mười ngón tay quen cầm súng bóp cò ôm giấc mơ ngủ
(Bên kia đêm là ngày)
Hình ảnh và biểu tượng trong thơ Thái Hải rất kín đáo. Hòa bình là mục tiêu muôn thuở của con người. Biết cầm lên cây súng mỗi khi đất nước bị xâm lăng là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân. Khát vọng của con người cũng như của đất nước thật giản dị: bên kia đêm là ngày, một chân lí hiển nhiên, giản dị.
Thơ Thái Hải mới, sâu kín chân thật.
Xin giới thiệu một số bài thơ trong tập thơ của Thái Hải.
Bóng lòng sông
Gió lạc mùa
mùi ngâu xa ngái
loang lổ bóng trưa
Không nhận ra ai chẳng ai nhận ra mình
rặng tre bờ đê xác xơ trắng lạnh
cái màu trắng phủ dày dòng sông phủ lên mái lá
trắng như ngày ra đi mỗi người một ngả
Nụ hôn thay lời nguyền
thiếu phụ chông chênh nỗi nhớ
đàn ông - đàn ông - đàn ông
không về - không về - không về
Làng không chồng
khung cửa méo hướng đông đón khách
bao ý nghĩ đục ngàu vào ra tự do
ảnh người yêu tổ tò vò che kín
bốn mươi năm thằng lính bạn tôi nhìn
Những đứa con không cha
những người đàn ông thèm khát đàn bà
tắm gội nước mắt
Nhặt bóng ai rơi vãi dưới lòng sông
ba lô gom nỗi đau dĩ vãng.

Đôi khi
Đôi khi lối nhỏ không đủ lọt bàn chân
cỏ đan dày hình dây kẽm gai thời chiến trận
đêm không còn là đêm nữa
gió đi từng bước chắc như nêm
rồi rít lên
gào lên
Đôi khi dòng sông quánh đặc vòng vèo con lươn cổ đại
chiếc thuyền không sóng vẫn chòng chành
dưới khoang người đàn ông nằm như cá mắc câu
đèn dầu không đủ tỏ mái chèo
Đôi khi tiếng người tiếng chim tiếng dế cùng tấu khúc hòa ca
cung bậc thấp cao nhịp phách trầm hùng thâu đêm đến sáng
mặt trăng nghe
mặt trời nghe
Đôi khi thật gần
thật xa
thánh thiện và hoang dã
sa mạc ngùn ngụt mà dấu chân ướt nhòe
Đôi khi khóc vì thèm một nỗi buồn
rồi xua nỗi buồn bám riết như định mệnh
cánh cửa lâu ngày quên mở
ổ khóa lách cách vẹt mòn đùng đục gợi khát khao
một tiếng chuông ngân
Đôi khi thèm một đôi cánh.