Từ nguyên mẫu đến nhân vật

Từ những ánh sao đơn lẻ

Thứ Năm, 07/08/2025 00:58

. NGUYỄN XUÂN THỦY
 

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết. Trong những chuyến đi ấy, đáng kể nhất là hai chuyến đi dài về với những người lính biên phòng xứ Thanh. Chuyến lên biên giới thứ nhất diễn ra vào tháng 5 năm 2023. Từ thành phố Thanh Hóa ngược Mường Lát, chúng tôi đi đến điểm xa nhất là Đồn Biên phòng Quang Chiểu, rồi từ đồn xa nhất đó rút dần về những đồn gần hơn. Đồn Biên phòng Quang Chiểu trên bản đồ nằm ở mũi đất thò sâu sang phía Lào, sau đó đến Đồn Tén Tằn nằm bên cửa khẩu quốc gia cùng tên, nơi con sông Mã chảy vào đất Việt, đều là những điểm địa đầu của Thanh Hoá.

Khi đoàn đến Đồn Tén Tằn, nghe thấy nhà báo Quỳnh Thơm của Tạp chí Văn nghệ Xứ Thanh nói sẽ đi sang Đồn Tam Chung trước để vào Bản Ón là nơi ngã ba biên giới, nơi có cột mốc 270 chuyển tiếp giữa Biên phòng Sơn La và Biên phòng Thanh Hóa, tôi đã xin được tách đoàn để bám theo cô. Thế là hai chúng tôi lên xe nhà binh về Tam Chung rồi lại tiếp tục đi xe máy của đồn vào tổ công tác Bản Ón. Hôm sau trở về tôi lại cùng Thượng úy Sùng A Ư đi xe máy lên Sài Khao, là nơi có phù điêu lưu niệm đoàn quân Tây Tiến. Khi trở về, đoàn tiếp tục ghé qua các đồn Pù Nhi, Trung Lý. Tại Đồn Pù Nhi, khi hỏi về chương trình “Nâng bước em tới trường” của bộ đội biên phòng, Thượng úy Nguyễn Văn Phương được mời lên trả lời câu hỏi của các nhà văn, nhà báo trong đoàn. Tiếp xúc với Phương, tôi cảm thấy ở chàng sĩ quan trẻ này vừa có sự hồn nhiên vô tư của tuổi trẻ, vừa có sự lạc quan của người chiến sĩ biên phòng. Sau đó tôi tìm cách tiếp cận Phương lâu hơn, theo về phòng riêng của Phương để khai thác sâu hơn, tìm hiểu tâm tư tình cảm và những trải nghiệm của người sĩ quan trẻ vùng biên này. Có thể nói, trong cả hai chuyến đi dọc dải biên giới phía tây Thanh Hóa khắp các đồn biên phòng, Phương là nhân vật tạo cảm hứng cho tôi nhiều nhất. Vẻ tưng tửng của Phương khi nói về những khó khăn, sự kêu ca khi phải uống rượu như là việc không thể không có nếu muốn hoàn thành nhiệm vụ ở vùng đồng bào thiểu số, và cả cái cách Phương kể về những đứa trẻ mà anh trong vai trò là Đội trưởng Đội Vận động quần chúng đang có trách nhiệm thay mặt đồn quán xuyến, săn sóc đã tạo cho tôi niềm xúc cảm tươi mới và mãnh liệt. Ngoài chuyện kể về việc đỡ đầu cho các em nhỏ trên địa bàn Phương còn kể về những ngày đầu khi anh mới từ Tây Ninh về Mường Lát, huyện xa xôi nhất của tỉnh Thanh Hoá, nhận công tác, làm ở Đội Vũ trang với biết bao kỉ niệm và những câu chuyện sinh động.

Tác giả Nguyễn Xuân Thuỷ và Thiếu tá QNCN Vũ Xuân Vuông tại nhà ông Lang Văn Chuẩn ở Bản Đục, xã Bát Mọt, huyện Thường Xuân, Thanh Hoá

Đến Đồn Biên phòng Trung Lý, vừa qua bữa trưa có uống rượu liên hoan tại đồn Pù Nhi rồi lại di chuyển một quãng đường dài nên cũng như mọi người trong đoàn, tôi có chút mệt. Nhưng khi nghe trong đồn có một cháu là con nuôi biên phòng đang ở, dù đang giờ nghỉ trưa tôi vẫn xin phép được xuống thăm cậu bé Gia Ngọc Tuấn cùng bố nuôi là Thiếu tá biên phòng Đinh Anh Tuấn. Cuộc gặp gỡ với hai cha con họ trong căn phòng có tấm biển “Con nuôi biên phòng” xen giữa giấc ngủ trưa của những người lính đã cho tôi những xúc cảm khác về tình thương của những người cha nuôi, của con người dành cho con người. Chi tiết gây chú ý với tôi đó là anh Đinh Anh Tuấn không phải là người được phân công làm cha nuôi cháu Gia Ngọc Tuấn mà vị trí này trước đó là do Đại úy Hơ Văn Cấu đảm nhiệm, bởi bố Tuấn cũng là sĩ quan biên phòng và là người Mông chẳng may qua đời nên chỉ huy đồn giao cho đại úy Hơ Văn Cấu, cũng là một người Mông làm cha nuôi cho dễ gần gũi và đồng cảm. Thế nhưng khi thiếu tá Đinh Anh Tuấn chuyển công tác về đồn, biết hoàn cảnh của Gia Ngọc Tuấn anh đã đề nghị với chỉ huy đồn cho mình được làm cha nuôi của em, bởi anh cũng là con liệt sĩ, từ nhỏ đã thiếu thốn tình cảm của cha nên rất thấu hiểu hoàn cảnh của Tuấn. Điều đó đã khiến tôi cảm động. Tìm hiểu thêm về phong trào “Con nuôi biên phòng”, tôi được Thượng tá Hồ Ngọc Thu, Phó Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa cho biết, Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của phong trào này trước khi nó được nhân rộng thành mô hình triển khai trong toàn lực lượng và nâng cao thành phong trào “Nâng bước em tới trường”, phong trào “Con nuôi Quân đội” ở quy mô toàn quân. Qua nhà văn Lưu Nga, Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Xứ Thanh tôi lại được nghe câu chuyện về một người cha biên phòng khác với những việc làm cảm động, chỉ tiếc là anh đã đi xa do một sự cố sức khỏe nên không thể gặp. Chị Lưu Nga cung cấp cho tôi những tư liệu đã lấy trước đây về Thiếu tá Trịnh Tứ Thắng để viết bài. Câu chuyện về những người cha gây xúc cảm mạnh nhất, cứ dai dẳng bám riết vào ý nghĩ của tôi khi trở về. Với những tư liệu về mảng công tác này, tôi đã triển khai thành bút kí đầu tiên Những người cha với những chi tiết cảm động rưng rưng về việc làm của các chiến sĩ biên phòng với con em đồng bào vùng biên, với những số phận trẻ thơ không may mắn.

Thượng úy Nguyễn Văn Phương đã xuất hiện trong bút kí Những người cha rồi nhưng tư liệu về anh thì còn nhiều và nếu bỏ qua sẽ rất phí. Tôi nghĩ đến những phần tư liệu khác để liên kết chúng với nhau. Cùng với những chuyện đã hỏi Thượng úy người Mông Sùng A Ư trên đường lên Sài Khao và tại Đồn Tam Chung trước đó, kết hợp với những tư liệu do Thiếu tá CN Vi Xuân Thao, cán bộ biên phòng tăng cường cho Bản Ón cung cấp, tôi đã tổng hợp phân loại tư liệu theo một chủ đề để triển khai bút kí “Binh pháp” vùng biên với giọng điệu vui tươi, dí dỏm và đầy chất lính.

Đó là những tư liệu lượm được dọc đường. Còn ở nơi góc trời biên giới mà tôi có chủ ý vào “săn bắt” thì có sự đặc biệt riêng. Tôi thống nhất ngay từ trước với Quỳnh Thơm rằng, đề tài dự kiến của cô là viết về những người dân bảo vệ cột mốc cô cứ triển khai, tôi sẽ không động vào, không gặp nhân vật của cô, tôi sẽ khai thác những mảng đề tài khác. Đón tôi tại trụ sở tổ công tác là Trung tá CN Phạm Gia Ngọ, còn Trung tá CN Nguyễn Đình Cường thì lọ mọ dưới bếp chuẩn bị bữa ăn. Hai anh là hai thái cực. Buổi chiều anh Ngọ dẫn chúng tôi đi thị sát Bản Ón một vòng, đến khu tái định cư, hôm sau thì lên cột mốc 270 tiếp giáp với Sơn La, còn anh Cường vẫn ở nhà lo hậu cần như một sự phân công ngầm. Trò chuyện với anh Ngọ và anh Cường, chú ý khai thác những câu chuyện trong quá khứ của họ, tôi đã có thể dựng chân dung hai người lính với ba chục năm quân ngũ thấm đượm những ngọt bùi, gian khó, những kỉ niệm gắn với vùng biên nhiều biến động, khắc nghiệt về thiên nhiên và khó khăn về nhiệm vụ này trên cương vị, chức trách của họ từng thời kì gắn với câu chuyện về hậu phương. Bút kí Nơi góc trời biên giới nhiều suy tư ngẫm ngợi đã ra đời từ đêm ở Bản Ón như thế.

Chuyến đi ấy với tôi đong đầy cảm xúc và những tư liệu quý. Cả dải biên viễn xa xôi ấy sau chuyến đi thực tế thứ nhất, vào dịp tháng 5 năm 2023 ấy, từ Mường Lát trở về tôi đã hoàn thành ba bút kí, sau đó lại cơ cấu ba bút kí theo trình tự hợp lí dưới một tên gọi chung là Những ngôi sao Mường Lát theo thứ tự lần lượt: Binh pháp vùng biên, Những người cha Nơi góc trời biên giới.

Chuyến đi thứ hai diễn ra vào tháng 10 với tuyến biên giới còn lại. Sau buổi làm việc với chỉ huy Đồn Biên phòng Tam Thanh, tôi đã đề xuất được lên vành đai biên giới, lên các chốt bộ đội đang làm nhiệm vụ. Do điều kiện xa xôi, tôi đã xin phép được nghỉ lại một đêm ở chốt xa nhất, đó là Chốt 347. Nhóm bốn người chúng tôi đã được toại nguyện, tách đoàn để lên chốt. Tại Chốt 347, thực tế không như tôi mong đợi. Do chúng tôi lên đột xuất bộ đội đều đã đi thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch không gặp được. Tôi ngạc nhiên khi gặp lại chính Thiếu tá Ngân Văn Thoan ở trên chốt, người đón tôi hôm trước khi đến Đồn Tam Thanh. Hóa ra Thoan đi theo chúng tôi lên chốt để… phục vụ hậu cần vì trên chốt chỉ còn Thiếu tá Lương Văn Dũng cùng một chiến sĩ ở lại trông nhà. Nhưng rồi nhân vật tiềm năng có thể khai thác ấy buổi tối lại phải xuống bản vì hôm đó là Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, Thiếu tá Lương Văn Dũng là Đội trưởng Đội Vận động quần chúng nên phải xuống giao lưu, chúc mừng Hội Phụ nữ. Cả nhóm chúng tôi ngẩn ngơ như hụt mất chuyến hàng. Tôi tha thẩn nhìn con chó con mèo trên chốt, hỏi chuyện bâng quơ Thoan và cậu chiến sĩ trực chốt còn lại. Ngắm nhìn giường tủ, đồ đạc giản đơn của những người lính chốt trong hoang vắng núi rừng, điểm gây chú ý cho tôi là mấy bao nilon rất to chứa đủ các loại thuốc móc trên vách nhà. Ở một góc bàn cũng có một bọc thuốc trong đó có vài thứ thuốc là lạ. Thiếu tá Ngân Văn Thoan cho tôi biết, đó là thuốc của Dũng, anh đang “phục sức” để chuẩn bị… cưới vợ lần thứ hai. Hỏi thêm nữa thì tôi nắm được cơ bản câu chuyện đời tư của Dũng, khi anh đi tăng cường lên Điện Biên, cuộc hôn nhân đầu đã tan vỡ. Vậy là qua Thoan tôi đã biết về Dũng, dù anh đang đi vắng. Tôi biết đó là nút thắt có thể triển khai câu chuyện. Dũng xuống bản xong sáng hôm sau lên sớm. Trước lúc rời đi sang Đồn Yên Khương, chúng tôi đã tranh thủ trò chuyện với anh. Cuối cùng thì cái đêm trên chốt “không có gì” đã là mạch nguồn để tôi triển khai bút kí Tiếng từ quy trên Chốt 347 về đời sống tình cảm và hậu phương của những người lính biên phòng thời bình.

Hôm sau, khi đoàn thực tế di chuyển từ Đồn Tam Thanh về Đồn Yên Khương thuộc huyện Lang Chánh, chúng tôi từ Chốt 347 cũng tiếp tục về đây để nhập đoàn. Nhưng theo kế hoạch đó cũng là điểm cuối của chuyến đi. Chúng tôi tranh thủ vớt vát những khoảng thời gian cuối cùng, cùng bộ đội xuống bản, vào với nhân dân, đi thăm thú thác nước, những đồng lúa đang vào vụ gặt. Khoảng hai ba tiếng tiêu pha thời gian cho những đợt “check in” như thế chúng tôi quay về đồn để dùng bữa trưa, cũng là bữa cơm chia tay kết thúc chuyến thực tế của đoàn. Trong bữa ăn, tôi được xếp ngồi cùng Thượng tá Hồ Ngọc Thu, nhà văn Lưu Nga cùng đồng chí đồn trưởng, đồng chí chính trị viên đồn. Trò chuyện trong bữa ăn, tôi được biết thủ phủ và thế mạnh của cây vầu Thanh Hoá là ở Quan Sơn, gần đây mới lan sang Lang Chánh một phần. Ở Yên Khương có mô hình trồng cây vầu là cây thoát nghèo, như một điểm đột phá của Lang Chánh. Hỏi về chuyện này thì đồng chí đồn trưởng bảo:

- Về cây vầu anh phải hỏi đồng chí Cần, tác giả của 400 héc ta vầu Yên Khương. Kia đồng chí ấy ngồi mâm kia...

Tôi hỏi thêm thì được biết, Trung tá Lò Văn Cần vốn là Chính trị viên phó của Đồn Yên Khương mới được điều làm về làm cán bộ tăng cường, giữ vai trò Phó Bí thư Đảng ủy xã Yên Khương mấy năm nay. Cần vốn là người gốc Quan Sơn, hiểu cây vầu đến chân tơ kẽ tóc. Ở Quan Sơn người dân đã trồng và phục tráng rừng vầu từ lâu, bên cạnh những rừng vầu tự nhiên. Vậy là khi tăng cường cho xã, Lò Văn Cần đã mang nghề trồng vầu về đây triển khai, nhân thành mô hình và đã thành công, mang lại hiệu quả trong việc chuyển đổi cây trồng phát triển kinh tế địa phương. Nắm được linh hồn câu chuyện, tôi cầm ly sang chúc sức khỏe mâm của Cần và trao đổi, xin số điện thoại hẹn sẽ hỏi thêm cho tường tận. Sau bữa ăn, đoàn thực tế lên xe ra về, còn nhóm chúng tôi theo kế hoạch sẽ nghỉ lại đồn Yên Khương qua giờ trưa để chiều xe đưa sang Bát Mọt theo đề xuất của tôi trước đó. Tranh thủ khoảng thời gian còn lại tôi điện thoại cho Cần định sẽ hỏi chuyện anh nhưng phần vì đã uống rượu, phần vì sau khi đoàn về thì anh em lại quay vào ăn tiếp vì còn một số cán bộ địa phương cùng dự nên Cần hẹn tôi sẽ làm việc vào đầu giờ chiều, khi vào giờ làm việc. Tôi đành chấp nhận bởi dù sao cũng là giờ nghỉ ngơi của bộ đội, không nên ép hay làm phiền quá. Tất nhiên thì đầu giờ chiều chúng tôi phải lên xe đi Bát Mọt, làm sao có thể ở lại để lấy tư liệu. Nhưng không sao tôi đã có số điện thoại của Cần. Sau khi về Hà Nội tôi điện thoại zalo nói chuyện với Cần, hỏi kĩ hơn về những việc anh làm, xin thêm anh hình ảnh minh họa. Đây chính là cảm hứng, là những tư liệu lõi có tính thuyết phục quyết định để tôi triển khai bút kí Cổ tích xanh chốn biên thùy viết về việc bộ đội tham gia trồng và bảo vệ rừng, gây dựng vành đai xanh biên giới.

Như đã nói, khi đoàn thực tế kết thúc chuyến đi tại Đồn Yên Khương, cảm thấy thòm thèm và máu nghề nghiệp kích thích khi còn Cửa khẩu Khẹo, thuộc Đồn Biên phòng Bát Mọt bị bỏ lại, tôi bèn đưa ra đề xuất để nhóm chúng tôi được tiếp tục hành trình khép lại chuyến đi ở vùng đất tiếp giáp với Nghệ An ấy. Một lần nữa tôi lại được toại nguyện. Lên Bát Mọt, ngoài việc thực tế tại Cửa khẩu Khẹo và các thôn bản gần đồn, tôi lại tiếp tục đề nghị vào Bản Đục là bản xa nhất, nơi có cột mốc 358 chuyển tiếp với Biên phòng Nghệ An. Vậy là tôi đã thực hiện được ước vọng khép kín tuyến biên giới phía tây Thanh Hóa.

Trong chiều biên giới bảng lảng khói sương, khi ngồi với thiếu tá Vũ Xuân Vuông trên ngôi nhà sàn của ông Lang Văn Chuẩn tôi lại gặp một bất ngờ nghề nghiệp khác. Vuông trên vai trò là Tổ trưởng Tổ công tác Bản Đục có nhiệm vụ “môi giới” cho chúng tôi trò chuyện với ông Chuẩn là một người dân có nhiều đóng góp trong công cuộc bảo vệ giữ gìn an ninh vùng biên, lẽ dĩ nhiên, câu chuyện sẽ tập trung vào chủ đề ấy theo giới thiệu từ chỉ huy đồn Biên phòng Bát Mọt. Thế nhưng ông Chuẩn thì vừa nói không thạo tiếng Kinh vừa kiệm lời, Vuông cứ phải đóng vai trò phiên dịch mãi, phiên dịch thì ít mà nói hộ thì nhiều, cho đến khi tôi xoay chiều qua chính anh để hỏi chuyện. Một câu hỏi của tôi đã chạm vào tâm tư của Vuông:

- Trong hai mươi năm gắn bó với Bản Đục đọng lại trong anh là những kỉ niệm gì?

Vuông chùng giọng như tâm sự:

- Có lẽ các anh chưa biết tôi là thương binh…

Thì ra Thiếu tá CN Vũ Xuân Vuông chính là một trong số chiến sĩ biên phòng tham gia vụ án ma túy tại Bát Mọt khiến Thiếu tá biên phòng Vi Văn Nhất hi sinh, còn anh và một đồng đội khác bị thương phải ra cấp cứu tại bệnh viện 108 vài năm trước. Thế là một câu chuyện khác, một không gian khác mở ra mãi trong chiều vùng biên đang trĩu xuống cùng bóng tối. Đó cũng là nút thắt quyết định để tôi triển khai bút kí Bát Mọt, những mùa sương là bút kí cuối cùng “chốt hạ” đợt về với Bộ đội Biên phòng Thanh Hóa, và tôi tin nó sẽ có sức nặng. Sức nặng đó là bởi sau khi kết thúc phần làm việc tại Đồn Bát Mọt chúng tôi còn liên hệ với lực lượng kiểm lâm để vào Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên thăm những cây di sản có độ tuổi lên đến một nghìn, hơn một nghìn năm ở nơi giáp ranh biên giới này. Những thân cổ thụ mốc xanh địa y đượm màu năm tháng đứng giữa mù sương như những người lính trấn ải lưu đồn, một hình ảnh giàu tính ẩn dụ. Tư liệu ấy đủ cho một bút kí hơn 7.000 từ dày dặn.

Chuyến lên biên giới xứ Thanh ấy với tôi đã trọn vẹn với hiệu suất làm việc cao, thu được nhiều tư liệu quý và các tư liệu ấy đều được xử lí, sử dụng thỏa đáng, phát huy được sức mạnh trong thể loại bút kí, có sức lay động với bạn đọc trong và ngoài Quân đội. Từ những ánh sao đơn lẻ đã hội tụ thành chùm sao sáng. Tôi đã gom lại cả loạt bút kí, in thành tập với tên gọi Những vì sao biên giới (Nxb Quân đội nhân dân, năm 2024). Nhưng quan trọng hơn, chuyến về miền Tây Thanh Hoá ấy mãi để lại trong tôi ấn tượng về một vùng đất ít nhiều còn phong kín, nơi in đậm dấu chân của những chiến sĩ biên phòng, để thấy rằng được đi, được viết, được về với bộ đội là hạnh phúc của người cầm bút.

N.X.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)

Truy tìm Nadja

Truy tìm Nadja

Là tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của André Breton, suốt nhiều thập kỉ, danh tính của nàng Nadja - người cũng được chọn là tựa đề sách - vô cùng bí ẩn.

‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

Tại Củ Chi có một suất chiếu đặc biệt của bộ phim “Địa đạo- Mặt trời trong bóng tối” được gọi là suất chiếu tri ân.