. NGÔ HƯỜNG
Chiếc xe lam màu xanh ngọc quẹo trái, đỗ xịch xuống bến xe Vườn Mít, kéo theo khói bụi mù mịt của một chặng đường dài. Một đoàn người đủ lớn nhỏ rệu rã nhảy xuống xe. Hai hào! Bác tài kêu lên gọn lẹ khi nhìn vào khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông đang đưa tay lần tìm cái gì trong túi áo. “Lạy ông! Nhà cháu chỉ còn hào rưỡi, ông lấy giùm, nhà cháu đội ơn ông.” Nhìn một bầy đoàn thê tử tha lôi nhau với gồng gánh đủ thứ vật dụng cũng đủ biết đây là một cuộc di cư tự phát. Bác tài không nỡ làm chạnh lòng người, đành ngậm ngùi nhặt lấy hào rưỡi trên bàn tay nhem nhuốc của người đàn ông, đút vào túi rồi ung dung ra quán hủ tiếu bà Ba Hiên làm một tô lót dạ trước khi đánh xe về lại Long Khánh.
Trời đã về chiều, ánh nắng hắt những tia yếu ớt về phía nhộn nhịp của bến xe. Kiều Mai ngước cặp mắt lo âu hỏi chồng: “Chặp tiếp theo sẽ ra sao?” Nghe tiếng vợ ỉu xìu bên tai như người hết hơi, Năm Sang cố gồng đôi vai gầy gò lên để lấy khí thế và nhìn cho đỡ ủ dột. Bởi những ngày qua, cả gia đình đã đuối lắm rồi. Năm đứa lớn nhỏ sắp hàng sàn sàn như nhau đang nằm thiếp trên nền đất. Khí trời cuối năm hơi lạnh. Từng cơn gió quất ràn rạt bay những bụi mù ngoài xa lộ. Phía bên kia là Sài Gòn, phía bên này là vùng đất mà cả gia đình anh vừa trốn chạy khỏi sốt rét rừng suýt lấy tính mạng. Từ một người đàn ông lực lưỡng sông nước, anh bị sốt rét rừng quật cho yếu xìu như một cọng bún thiu. Nếu đi tiếp thì sao?
Năm Sang ngước cặp mắt đỏ hoe nhìn về xứ Sài Gòn hoa lệ mà anh đã phải tủi nhục bước chân ra đi gần chục năm trước, rồi ngoái lại nhìn chốn hoang vu vừa rời bỏ mà nao lòng. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu: hay là mình neo lại đây. Biên Hòa cũng thuộc dạng sầm uất, người tứ xứ đến đây nườm nượp, trên bến dưới thuyền đông đúc, lẽ nào không cho gia đình anh một chốn dung thân. Anh đứng lên vươn vai dõng dạc tuyên bố: “Mình cắm đô tại đây!” Cái giọng quả quyết của Năm Sang làm vợ anh hơi chưng hửng. Rõ ràng lúc rời xa Long Khánh, anh nói sẽ đưa vợ con về Sài Gòn, rồi từ đó sẽ bắt xe xuống miền Tây mướn mấy công đất làm ăn. Thế mà bây giờ quyết cái rụp. Kiều Mai biết rằng, mỗi khi Năm Sang đã quyết, tức là thánh chỉ, cấm cãi. Cũng như lúc anh dắt tay cô bỏ đi trước sự thách thức và sỉ nhục của cha cô: “Một thằng tứ cố vô thân làm sao đủ tư cách bước chân vào cái nhà này! Mày mà khăng khăng yêu nó thì cút theo nó. Cút cho khuất mắt tao! Để xem mày trụ được bao lâu!”

Minh họa: Lê Trí Dũng
Sự sỉ nhục đó khiến Năm Sang có một dũng khí kì lạ. Anh lôi xềnh xệch người con gái tiểu thư đài các đi một mạch không nghỉ. Đến lúc cả hai gần lả đi vì đói thì đã ra khỏi Sài Gòn. “Anh chị đi đâu?” “Đi đâu cũng được, miễn là đi khỏi đây.” Năm Sang không tin là một người khỏe mạnh như anh lại không thể che chở được cho Kiều Mai. Chuyến xe lam ngày xưa đó cũng đưa hai người đỗ xuống bến xe Vườn Mít, nhưng cả hai lại quyết đi thật xa. Sau một đêm hóng chuyện của các bà bán hàng, Năm Sang đã quyết dắt Kiều Mai xuống tận Long Khánh xa xôi, vợ chồng có năm đứa con, rồi không trụ nổi bởi ốm đau nên mới phải đưa vợ con trở về Sài Gòn…
Ba xu một tô hủ tiếu. Năm Sang chưng hửng quay bước đi khi nghe bà Ba Hiên nói giá. Trong túi anh bây giờ còn có mấy hào. Nhà bảy con người, ăn dè lắm cũng hết ba tô, vị chi mất một hào. Nếu ăn hết thì biết lấy gì cho ngày mai. Thấy Năm Sang bỏ đi buồn bã, bà Ba Hiên gọi giật giọng:
- Ê mày, qua tao biểu.
- Dạ con không có tiền ăn đâu bà!
- Ai biểu mày trả tiền. Đưa hết sắp nhỏ qua đây ăn cho no cái bụng đã.
Bọn trẻ trở nên nhốn nháo khi nghe có người mời ăn một món xa lạ mà chúng chưa từng được nếm qua. Kiều Mai dè dặt ấn các con ngồi xuống. Cái nết trâm anh của cô vẫn không bị gió bụi phủ mờ. Các con của cô dù đói nhưng nhận được cái nhìn của mẹ liền ngoan ngoãn ngồi xuống trật tự. Bà Ba Hiên trở nên bực bội:
- Tao biểu kêu hết qua đây. Tao có lấy tiền đâu mà phải ngại.
Lúc này Kiều Mai mới lật đật đứng dậy, cô bước nhanh tới hàng hủ tiếu của bà Ba:
- Dạ, bẩm bà, con có thể làm việc gì để phụ tiền ăn tối nay? Nếu bà cho không thì con không dám nhận ạ.
Nhìn dáng vẻ đài các giấu dưới tà áo rách rưới của người phụ nữ, bà Ba Hiên chợt nhớ lại những ngày đầu bà đến Biên Hoà trong sự náo loạn và xô đẩy của một chuyến xe chật ních những người di cư từ miền Bắc vào. Lúc đó, bà mới chừng hơn mười tuổi. Trong một buổi đi chợ cùng mẹ, bà hiếu kì đi theo một đám đông náo loạn, rồi thế nào đó bị đẩy lên chuyến xe định mệnh. Cuộc đời vạ vật đầu đường xó chợ của bà chỉ kết thúc khi cha nuôi bà đem về cưu mang và truyền cho nghề nấu hủ tiếu gia truyền. Khi ông mất đi, bà trở thành người thờ phụng và trông nom gia sản vì ông không có người thân thích. Nhìn cảnh chiều nay, bà chợt chạnh lòng nhớ về người cha nuôi ơn nặng đã cưu mang. Bà dịu giọng nói vừa đủ người đối diện nghe:
- Kêu tụi nó qua ăn đi. Cần trả tiền thì ngày mai đi làm với tao, tao chỉ cho mà chạy chợ.
- Dạ, được thế con đội ơn bà!
Kiều Mai quay lại ra hiệu cho đàn con tới. Chỉ chờ có thế, đám trẻ như một đàn chim sẻ sà xuống đám lúa vừa gặt xong.
- Phước báu quá! - bà Ba Hiên tấm tắc khi thấy những đứa trẻ mặt mũi khôi ngô đang sì soạp húp từng thìa nước hầm xương. Có lẽ lâu ngày rồi chúng chưa có được bữa ngon như thế.
Nhìn đàn con đang ăn một cách khí thế, rồi lại nhìn quanh quất bến xe thấy lác đác vài người tới ăn hàng, Kiều Mai hơi lo lắng. Không biết gánh hủ tiếu của bà Ba cần người phụ công đoạn nào để Kiều Mai có thể giúp. Gánh nước thì cô không làm nổi, bổ củi cô cũng không rành, rửa chén thì có đứa con gái bà Ba đang làm thoăn thoắt. Mà cái gánh hàng của bà ba mỗi ngày chắc vài chục tô hủ tiếu cho các bác tài và khách chờ xe, lấy đâu ra nhiều chén cho cô phải phụ. Nhưng nghĩ mà làm gì, cứ để đến mai rồi tính tiếp.
Bà Ba dắt cả nhà Năm Sang về xóm chài khi trời đã tối mịt. Bầy chó ngửi thấy mùi người lạ chạy tới sủa inh ỏi. Nhà bà Ba nằm sát mé sông, phía dưới có neo một cái tắc ráng của ông Ba chạy hàng mỗi sáng sớm.
- Má dẫn theo ai về vậy? - Giọng con Út đầy tò mò.
- Bạn hàng của má - Bà Ba đáp gọn lỏn rồi chỉ chỗ cho nhà Năm Sang nằm xuống nghỉ ngơi.
Giờ này ông Ba đã ngon giấc, bà không muốn kinh động giấc ngủ của ông, vì sáng sớm mai ông đã phải chạy lên tận Cần Giờ lấy hàng về bỏ mối chợ. Bà tính cho người mẹ của đàn con xa lạ kia một công việc chạy chợ ngay gần nhà, mối hàng đã có ông Ba cung cấp, nó chỉ việc ngồi bán thôi. Mỗi sáng bà Ba vẫn làm việc này. Nếu chịu khó thì cũng có đồng ra đồng vào đong gạo nuôi bầy con. Còn chồng nó thì đi quanh chợ, ai mướn bốc vác hay gánh nước bổ củi cũng kiếm được đôi đồng. Bà Ba gật gù nghe vẻ đắc ý với sự sắp đặt đó rồi đi thẳng vào nhà trong.
Đêm sông nước mênh mang, tiếng ếch nhái kêu ran cả một vùng. Chó không còn sủa nữa. Năm Sang ôm lấy đôi vai gầy gò vừa qua cơn bạo bệnh của Kiều Mai an ủi:
- Tui đã làm khổ em, đã khiến em lênh đênh khắp chốn. Không biết mai rày ra sao!
Kiều Mai thở dài đánh thượt:
- Mình ngủ đi, mai dậy sớm còn phụ bà Ba dọn hàng.
Đêm thành phố không dài lê thê như nơi rừng núi. Vừa mới chợp mắt đã thấy trời sáng bảnh. Bà Ba Hiên đang lụi cụi giặt đồ dưới bến. Kiều Mai vấn vội mái tóc rồi ra khạp nước rửa mặt. Đàn con vẫn ngủ say. Sau một hồi căn dặn của bà Ba, Kiều Mai trở vào nhà, thay bộ đồ tinh tươm nhất rồi theo bà ra chợ cá đón hàng ông Ba chở về. Đó là cá tôm ông ba mua của dân chài dưới Cần Giờ. Sau khoảng bốn tiếng đồng hồ cả đi cả về, ông có mặt ở chợ cá là lúc trời vừa sáng. Người dân Biên Hòa sẽ ra đây chọn những con tôm con cá tươi ngon nhất về chế biến món ăn trong ngày. Những sạp hàng lớn ở tận Thuận An, Thủ Dầu Một cũng qua đây. Việc của Kiều Mai là cùng bà Ba phân loại cá tôm lớn nhỏ và cân cho người mua. Việc này đòi hỏi sự nhanh nhẹn khéo léo. Kiều Mai đi theo bà Ba được một tuần thì Năm Sang vẫn trong tình trạng thất nghiệp. Nhìn vóc dáng yếu nhớt, xanh xao của Năm Sang thì ai dám mướn làm việc nặng. Còn việc nhẹ thì đàn bà đã thay nhau làm hết rồi. Vậy nên cứ mỗi sáng, ngoài việc phụ giúp bà Ba phân loại cá, Năm Sang hầu như ở không.
Bà Ba thấy Kiều Mai chăm chỉ, dễ thương nên bà dành hẳn căn nhà ngang gần mé sông cho gia đình cô ở. Căn nhà đấy trước đây làm nhà kho chỗ ông Ba để các đồ nghề đánh cá và chạy ghe, dọn lại cũng đủ chỗ ăn ở sinh hoạt cho bảy con người. Hằng ngày, Kiều Mai theo bà Ba Hiên ra chợ cá từ năm giờ sáng, còn Năm Sang ở quanh quẩn chợ Biên Hòa kiếm việc chân tay. Có lần Năm Sang lần mò đến làng đá Tân Thành xin theo học việc. Vì chưa từng làm nghề này nên anh chỉ được giao khuân vác đá và dọn dẹp vụn đá khi các nghệ nhân đục đẽo. Làm được đến bữa thứ tư thì đá đổ trúng chân, phải cắt đi ngón út. Vậy là Năm Sang bỏ cuộc về loanh quanh góc chợ chờ người thuê mướn làm công nhật. Mỗi chiều, anh lại cùng mấy bạn cửu vạn rủ nhau lai rai vài chai cho quên cái sự đời. Lúc nào bán ế, Kiều Mai lại hấp lên cho chồng vài con cá con tôm đãi bạn. Xóm Chài từ lúc có gia đình Năm Sang về cũng vui hẳn.
Chiều nay, nắng oi bức như phả lửa vào mặt sông. Trời quái dị với một màu đỏ ngoạch. Đang mùa khô mà nổi giông tố như giữa mùa mưa. Ông Ba ra dòm trời rồi kêu nhà Năm Sang nghỉ sớm vì thời tiết này ông biết sắp có trận mưa giông đổ xuống. Năm Sang ra bến xe phụ bà Ba dọn hàng về đến cổng cũng là lúc trời đổ mưa sầm sập, sấm sét chưa từng có. Đàn con của Năm Sang co cụm vào góc nhà ôm lấy mẹ. Lúc này, chiếc tắc ráng của ông Ba đột nhiên bị sét đánh đứt dây, bắt đầu trôi ra xa. Năm Sang chẳng nói chẳng rằng, chạy một mạch xuống bến trong mưa giông tầm tã. Tiếng kêu ngăn cản của bà Ba không thắng nổi những trận mưa ào ạt đổ xuống. Năm Sang đã kịp bám lấy mui thuyền và kéo vào bờ, neo buộc cẩn thận. Đêm ấy, anh lên cơn sốt. Cơn sốt kéo dài mấy ngày không dứt, chỉ nghe thấy tiếng Năm Sang ú ớ rồi đạp chân liên hồi như bị ai đuổi. Cả xóm lo sợ Năm Sang không qua khỏi.
Kiều Mai đi chợ, có ông lão ghé qua, nhìn mặt cô chằm chằm rồi nói: “Thiên mệnh, cứu mệnh, mệnh trả mệnh! Biết thờ cúng giếng thiêng thì giàu.” Kiều Mai chưa kịp hiểu gì thì ông cụ đã quay gót đi mất. Chiều đó về nhà, Năm Sang bỗng ú ớ gọi vợ. Kiều Mai nhớ câu nói hồi chiều nên đem ra kể với bà Ba Hiên. Nghe đến giếng thiêng, bà Ba chỉ cho Kiều Mai lùm cây um tùm phía bến. Bà bảo, ở đó có một cái giếng, chẳng biết có từ lúc nào, trước đây dân vẫn dùng nhưng vì xa nên giờ thành giếng hoang. Kiều Mai kéo tay bà Ba chạy một mạch xuống bến. Vén đám cây dại ngay dưới gốc cây gáo cổ thụ thì lộ ra một cái giếng hình vuông rộng chừng một mét đầy ăm ắp nước. Cô đưa tay vục một vục nước lên, trong vắt. Cô mạnh dạn vục một vục nước nữa rửa mặt thì mát lạnh và thư thái đến lạ. Kiều Mai bấm tay bà Ba đi lên.
Từ ngày phát hiện ra giếng cổ, hằng ngày, theo lời ông cụ bí ẩn ở chợ, Kiều Mai lặng lẽ mang trái cây ra cúng và gánh nước về dùng. Mấy ngày sau thì Năm Sang khỏi bệnh và khỏe mạnh như xưa. Thế là từ đó, hai vợ chồng thay nhau chăm nom giếng nước. Nghe lời đồn, người dân quanh xóm cũng bắt đầu đến xin nước về uống. Nước giếng vuông kì lạ, nấu nước chè luôn có một màu sắc xanh mức đặc biệt, nấu bún riêu cũng ngon đến lạ kì. Những ngày chợ ế, Kiều Mai lại đem mấy con cá con tôm về nấu cùng nước giếng. Cô còn bắt chước người miền Tây quê chồng thả mấy cọng bông súng, thèo lèo, rau đắng vào mà nồi nước dùng thơm phưng phức. Lúc đầu là nấu trong nhà, cho anh em cửu vạn, về sau tiếng lành đồn xa, nhiều người đến nhờ Kiều Mai nấu. Những món thập cẩm đó trở thành nồi lẩu trứ danh của Kiều Mai được anh em thợ thuyền truyền tai nhau nhanh hơn cơn giông chiều định mệnh. Vậy là nổi tiếng. Kiều Mai bỏ hẳn chạy chợ mà cùng chồng mở quán lẩu tôm phía gần chợ cá. Cái tắc ráng của ông Ba không còn mua đủ thứ loại tạp nham nữa, mà tập trung mua những nguyên liệu cho món lẩu của Kiều Mai.
Quán lẩu của vợ chồng Năm Sang ngày càng nổi tiếng. Bà Ba Hiên cũng thôi chạy chợ mà phụ giúp hai vợ chồng cô bán quán. Chỉ mới một năm mà Năm Sang đã mua hẳn cả khu đất nhà bà Ba để bà chuyển lên phía chợ Biên Hòa cao ráo hơn. Đêm đêm, hai vợ chồng cùng nhau đếm tiền bán được trong ngày. Đèn sáng đến tận nửa đêm mà tiếng đếm tiền vẫn không dứt. Tiếng kim loại va vào nhau lẻng xẻng vui tai.
Năm Sang ngắm nhìn gương mặt trái xoan quý phái của vợ đang dần hồi sinh mà thầm cảm ơn ông trời đã ra tay cứu vớt. Vợ anh phải thật xinh đẹp, sang trọng như bông hoa mai ngày tết mà ông nội đặt tên, để bù lại những năm tháng cơ cực đã qua. Anh đang mơ về một thương hiệu lẩu tôm nổi tiếng cả vùng Biên Hòa, mà khi nhắc đến, không ai có thể quên được những gian khó của vợ chồng Năm - Kiều. Ngày mai thức dậy, anh phải kêu thợ đến vẽ ngay cái biển cho quán lẩu tôm mới đủ sức khang trang. Trong đầu anh đang nghĩ đến quán lẩu tôm Năm Kiều ngày càng thịnh vượng. Mai sau, các con, các cháu của anh sẽ tiếp nối và làm rạng danh thương hiệu lẩu tôm thơm ngon nấu từ nguồn nước giếng cổ trứ danh này.
Đêm dần buông xuống mặt sông mênh mang sóng. Phía xa xa, chiếc tàu chở khách vừa rúc lên một hồi còi thật dài khi qua cây cầu trăm tuổi. Quá khứ đã lùi xa, nhường chỗ cho ngày mai tươi sáng bắt đầu...
N.H
VNQD