. NGUYỄN THANH TÚ
Với quan niệm tất cả vì “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” nên khi còn hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh rất có ý thức tiếp thu văn hóa nước ngoài, coi đấy là thứ vũ khí đấu tranh để phục vụ cho mục đích cao cả của mình. Nhưng vượt lên điều ấy, ở ngày hôm nay khi mà xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ồ ạt, đứng trên quan điểm tiếp biến văn hóa chúng ta càng nhận thấy rõ hơn tư tưởng này của Hồ Chí Minh là đi trước thời đại. Việc làm chủ ngôn ngữ, am hiểu văn học Pháp như một phương tiện hiệu quả đã góp phần giúp Người sáng tạo những kiệt tác văn chương viết bằng tiếng Pháp, đồng thời có được sự thành công vẻ vang trong công tác hoạt động cách mạng.
Tinh thần học tập, tiếp thu, kế thừa văn hoá nước ngoài của Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong lời Người nói với nhà văn Nga Ruf. Bersatxki: “…các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần phải vứt bỏ văn hóa nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại! Tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xô-viết - chúng tôi thiếu - nhưng đồng thời lại phải tránh nguy cơ trở thành những kẻ bắt chước. Không thể lấy từ nghệ thuật của một dân tộc khác chỉ riêng mặt nào đó - chẳng hạn, tính ước lệ nổi tiếng của văn học Trung Quốc, - cái đó sẽ chẳng hay ho gì. Văn hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ có trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình” (Hồ Chí Minh với văn nghệ sỹ văn nghệ sỹ với Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, 2010,Tập 3, tr 56). Ở đây toát lên mấy vấn đề lý luận: cần tiếp thu đa dạng các nền văn hoá khác nhau; nhưng phải chủ động, không bắt chước, biết tiếp thu cái gì là đặc sắc mà mình còn thiếu. Muốn thế phải nghiên cứu nền văn hoá mình cần tiếp thu một cách toàn diện, hệ thống. Có lẽ cần thấm thía hơn lời dạy của Người về tính chỉnh thể của văn hoá, cần phải nắm bắt cái chỉnh thể để tìm ra cái đặc sắc cá thể để tiếp nhận. Và một thái độ tôn trọng các sắc thái văn hóa, qua ví dụ sau, khi Người khi sang thăm Pháp năm 1946:
“Tướng Tetit còn mời Bác đi coi các vũ nữ nhảy điệu Cancan ở Pôli Bécgierơ, một rạp tạp kỹ lừng danh, được cả thế giới biết đến. Nhìn các vũ nữ đẹp, khá hở hang, nhảy múa uyển chuyển, Bác cười vui, chứ không chê bai, kể cả khi đã về tới nhà. Rất dân tộc, Bác biết cái đẹp của dân tộc khác, không bao giờ lấy mình ra làm thước đo” (Phạm Hoàng Điệp (biên soạn) - Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Pháp. Nxb Chính trị Quốc gia, 2010.tr 159).
Dưới đây chúng tôi xin chứng minh việc Hồ Chí Minh tiếp thu văn học Pháp ở ba phương diện: văn học dân gian, văn học hiện đại và các biểu trưng, khái niệm văn hóa.
Trên báo L’Humanite’ ngày 30 và 31-5-1922 có đăng bài báo Pari với lời tựa Trích “Những bức thư gửi cô em họ” do tác giả dịch từ tiếng An Nam. Với phong cách thân mật hoá, người gửi thư kể cho cô em họ biết về một Pari bên cạnh cái vẻ sang trọng là những cảnh nghèo hèn thảm hại. Những hình tượng trong thư mang phong cách ngụ ngôn: “Này cô, hãy xem ông bác mình ép mía lấy đường theo cái kiểu nghìn năm xưa cũ của dân ta, thì cô nghĩ ra được cái cảnh xã hội ở đây nó thế nào. Có bao nhiêu nước ép ngon ngọt thì cứ tuôn cả ra một bên cối, còn bên kia thì chỉ có bã, bẹt ra, quắt lại. Đây cũng thế. Một bên là giàu sang và nhàn rỗi, một bên là cần cù và thiếu thốn. Lôi thôi và gầy guộc như ngón tay khoằm khoằm của con mụ phù thuỷ già, ống lò sưởi ở Êpinét mùa hè thì um khói và mùa đông thì lại như tắt ngấm. Trông xa, nhà cửa khẳng khiu trong xóm giống y mặt người vậy, những bộ mặt người ngơ ngác mà cái bề mặt tiệm của một bác buôn giẻ rách hay của một hiệu thịt ướp lạnh thì làm ra dáng cái miệng móm, còn cửa sổ đã toác toạc thì dùng làm những con mắt nhẻm những dử lại cận thị” (Tập 1, tr 70). Trong truyện cổ dân gian Pháp hay xuất hiện hình tượng con mụ phù thuỷ già “lôi thôi và gầy guộc”. Từ hình tượng ngón tay khoằm khoằm bạn đọc liên tưởng ra cả mụ phù thuỷ với “bộ mặt người ngơ ngác”, “cái miệng móm”, “con mắt nhẻm những dử lại cận thị”. Một so sánh thật độc đáo: cái máy ép mía và xã hội con người. Nếu ở máy ép mía là: “Có bao nhiêu nước ép ngon ngọt thì cứ tuôn cả ra một bên cối, còn bên kia thì chỉ có bã, bẹt ra, quắt lại” thì ở xã hội bất công cũng tương tự: “Một bên là giàu sang và nhàn rỗi, một bên là cần cù và thiếu thốn”. Cảnh nghèo khổ khốn cùng ở xóm thợ nghèo hiện lên với so sánh đặc sắc: ống lò sưởi, cũng xấu xí và khó tính “Lôi thôi và gầy guộc như ngón tay khoằm khoằm của con mụ phù thuỷ già”. Còn liên tưởng dành cho bạn đọc: xứ Êpinét thì như một “mụ phù thuỷ già” vậy.
Trong Thư trả lời ông H.(Thượng Huyền), viết ngày 9-4-1925 với bút danh L.T, Nguyễn Ái Quốc lấy một câu tục ngữ Pháp để làm rõ quan niệm của mình về tác phẩm văn chương: “Một câu tục ngữ Pháp có nói: "Hứa hẹn nhiều bơ hơn là bánh mì". Tôi nghĩ rằng một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt”(Tập 2, tr 157).
Ý của câu tục ngữ Pháp thật hay: không nên hứa hẹn nhiều, hứa hẹn nhiều mà không làm thì chỉ là vô nghĩa, không giá trị. Tác phẩm văn chương, trong lúc Tổ quốc lâm nguy thì cần sự thiết thực hơn là bóng bẩy. Quan niệm về tác phẩm văn học này hoàn toàn nhất quán với quan niệm sau này của Hồ Chí Minh: văn hoá cũng là một mặt trận. Nhà văn là chiến sỹ trên mặt trận ấy. Điều ấy cho thấy một trong những khía cạnh biểu hiện bản lĩnh Hồ Chí Minh là sự nhất quán về quan niệm trong suốt cuộc đời!
Ngày 25-7-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có Thư gửi nhân dân Pháp sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, đại diện Cao uỷ Pháp Bôlae, có đoạn: “Bọn quân phiệt thực dân đã bắt buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, chúng tôi lấy câu châm ngôn hiên ngang của các bạn làm châm ngôn của chúng tôi:
"Thà chết không làm nô lệ".
Chúng tôi chiến đấu vì công lý. Chúng tôi sẽ tồn tại; chúng tôi sẽ chiến thắng” (Tập 5, tr 129).
Câu châm ngôn Pháp nổi tiếng trên thế giới được sử dụng thật đúng với hoàn cảnh Việt Nam đã cố gắng để tránh một cuộc chiến tranh, nhưng bọn thực dân Pháp thì không muốn thế, bởi chúng quyết tâm chiếm lại nước ta. Đây là lá thư gửi nhân dân Pháp, mục đích là để cho nhân dân Pháp hiểu tình hình, hiểu người Việt Nam không muốn đổ máu, nhưng vì lòng tự trọng nên người Việt quyết không chịu hèn mất nước. Như người Pháp đã nói thế, “chúng tôi” sẽ làm theo câu nói ấy, hãy ủng hộ “chúng tôi”.
Cũng với tinh thần ấy, nhân kỷ niệm ba năm ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh có Điện gửi nhân dân Pháp nhân ngày 19-12-1948: “Dân tộc chúng tôi đã anh dũng chiến đấu. Dân tộc chúng tôi đã chiến đấu "không chút sờn lòng, không điều ân hận", vì chúng tôi chiến đấu cho tự do, cho độc lập, và đối với nhân dân Pháp chúng tôi không thù hằn gì. Chúng tôi đã tỏ rằng chân lý, công lý, lịch sử và tương lai ở về phe chúng tôi. Chúng tôi sẽ thắng!”(Tập 5, tr 535).
Một câu châm ngôn nổi tiếng của hiệp sỹ Bayard của nước Pháp thời cổ: "không chút sờn lòng, không điều ân hận". Câu trích có ẩn ý: nếu hiệp sỹ Bayard ngày xưa chiến đấu vì chân lý, công lý, thì chúng tôi nay cũng vậy, chúng tôi phải chiến đấu cho tự do, cho độc lập nên quyết tâm của chúng tôi và hiệp sỹ của nhân dân Pháp là giống nhau. Hãy coi chúng tôi như là những hiệp sỹ Bayard của nước Pháp đang chiến đấu vì lý tưởng, vì “chân lý, công lý”.
Có một khoảng thời gian khá dài sống ở Pháp, say mê tìm hiểu, học tập ngôn ngữ văn hoá, ngoài văn học viết, Hồ Chí Minh có một vốn liếng lớn về lời ăn tiếng nói của người Pháp. Sự hiểu biết ấy đóng vai trò rất quan trọng cho cả cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại của Người. Tháng 1-1956 Người viết bài báo Đảng Cộng sản Pháp thắng to vui mừng trước thắng lợi của một đảng mà Người đóng vai trò một trong những người sáng lập: “Chắc bà con ta còn nhớ rằng: Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1951, Đảng Cộng sản Pháp chỉ được 94 ghế đại biểu, mà báo chí Mỹ đã la ó lên: "Suốt mấy năm nay, Mỹ đã bỏ cho Pháp hàng trăm triệu đôla, mà kết quả là cứ 4 người Pháp thì 1 người tán thành cộng sản. Thế là Chính phủ Mỹ đã đưa tiền đổ xuống biển, mất công toi dã tràng!...". Ngày nay, Đảng Cộng sản Pháp thắng to như vậy, chẳng hay báo chí phản động Mỹ sẽ có thái độ thế nào?
Tục ngữ Pháp có câu: "Chó sủa mặc chó, xe cứ tiến lên".
Chúng ta cũng nhớ rằng: Trong những năm kháng chiến, Đảng Cộng sản Pháp đã ra sức hô hào và lãnh đạo nhân dân Pháp chống chiến tranh thực dân và hết lòng ủng hộ nhân dân ta. Ngày nay, Đảng Cộng sản Pháp đòi Chính phủ Pháp thi hành đúng đắn Hiệp định Giơnevơ và ủng hộ chúng ta trong cuộc đấu tranh chính trị để thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước” ( Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002, tập 8, tr 112. Các ví dụ trong bài chúng tôi đều lấy từ bộ sách này).
Người mượn câu tục ngữ Pháp thật thâm thuý và rất đúng hoàn cảnh, bạn đọc hiểu ngay: “chó sủa” là “báo chí Mỹ đã la ó”, còn “xe cứ tiến lên" là Đảng Cộng sản Pháp “cứ tiến lên”.
Năm 1929 Bác Hồ từ châu Âu về nước Xiêm phát triển tổ chức Việt Kiều gây dựng cơ sở cách mạng, một hôm trên đường đi công tác Bác kể cho đồng chí của mình câu chuyện ngụ ngôn Pháp Trẻ con không nên nghe trộm. Chuyện rằng: “Có hai em bé vào chơi trong rừng. Mải mê nghe chim kêu, xem bướm lượn cùng những thú rừng kỳ lạ khác, trời sập tối lúc nào không hay. Hai em đang lo lắng thì gặp một ông cụ tiều phu. Cụ đưa hai em về nhà cho ăn và ngủ. Đến đêm, cụ ông bàn với cụ bà làm thịt gà để ngày mai thết hai em bé. Cụ ông nói: “Thịt con lớn hay con bé?”. Cụ bà bảo: “Nói khẽ chứ! Nói to, chúng nghe, chúng chạy mất…”. Lúc này hai em vẫn còn thức, nghe thấy thế, đinh ninh là các cụ bàn cách thịt mình, nên lo sốt vó…” (Nhiều tác giả - Bác Hồ kính yêu – Nhà xuất bản Kim Đồng, 1970, tr 31). Tưởng đó chỉ là câu chuyện vui nhưng đấy lại là một bài học chính trị về nhận định con người để gây dựng cơ sở cách mạng, mà như lời bình luận của Bác, có những người “có thái độ bề ngoài tuy thô lỗ như cục sắt nhưng bên trong lại là một tấm lòng vàng”. Theo chúng tôi, những câu chuyện ngụ ngôn mà Bác kể như truyện trên sinh động và thuyết phục hơn nhiều những bài học lý thuyết chay về mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình thức và nội dung…trong việc nhận xét cá nhân, xây dựng tổ chức cách mạng.
“Trái lại, giống như con chó trong chuyện ngụ ngôn, họ lại thích đeo cái vòng cổ để kiếm miếng xương của chủ. Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy (Tập 1, tr 64). Một sự phê phán đích đáng tâm lý nô lệ thảm hại ở những người dân bản xứ, vì ít học nên dốt nát, muốn giải phóng nhưng không có phương pháp nên đành chấp nhận sống trong u mê như kiếp chó vậy. Một so sánh vật hoá nhưng ý nghĩa thì vượt lên mang tầm thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa: phải biết tìm ra con đường giải phóng dân tộc!
“Bị thua to và sa lầy ở miền Nam, chúng muốn mở rộng chiến tranh đến miền Bắc hòng gỡ thế bí. Như thế khác nào con chó sói hai chân sau đã bị kẹt vào cạm bẫy, muốn thò cả hai chân trước vào cạm bẫy nữa để giải thoát cho hai chân sau! Thật là ngu xuẩn!” (Tập 11, tr 404). Chúng tôi cho rằng so sánh này không chỉ đúng với tính cách mà còn đúng với cả hoàn cảnh giữa cái so sánh và cái được so sánh. So sánh bọn xâm lược Mỹ với chó sói là chính xác về bản chất: hống hách, hung dữ, hiểm độc, sẵn sàng ăn thịt cả đồng loại… Đồng thời cũng chính xác hơn, mỉa mai cay độc về tình cảnh của đế quốc Mỹ lúc này: “đã điên cuồng lại thêm ngu ngốc, luống cuống”. Không thể tìm ra một ví dụ nào diễn đạt đúng hơn hoàn cảnh của đế quốc Mỹ như ngụ ngôn này: “khác nào con chó sói hai chân sau đã bị kẹt vào cạm bẫy, muốn thò cả hai chân trước vào cạm bẫy nữa để giải thoát cho hai chân sau!”.
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đặc biệt ưa thích ngụ ngôn của La Phông ten (La Fontaine), nhà ngụ ngôn nổi tiếng thế giới, người Pháp, những câu chuyện đậm tính chất giáo dục, triết lý đã trở thành cổ điển cho mọi dân tộc trên thế giới. Trong Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền), lá thư đề ngày gửi 9-4-1925, Nguyễn Ái Quốc đã lấy ngụ ngôn La Phôngten để mỉa mai "những con chuột An Nam" đớn hèn:
“Khi tôi đọc đến phần này, tôi liên tưởng ngay đến bài thơ ngụ ngôn của La Phôngten: Hội đồng chuột. Thơ ngụ ngôn ấy đại thể kể như sau: Trong một nhà kia có một chú mèo cật lực săn diệt chuột không thương tiếc. Chuột ra quyết định sẽ treo chuông lên cổ mèo để khi bị mèo săn bắt, nghe tiếng chuông, chuột biết mà kịp chạy trốn. Nhưng không có chuột nào dám tình nguyện treo chuông lên cổ mèo cả.
Phải, không một con chuột nào của La Phôngten nói trong thơ ngụ ngôn dám buộc chuông lên cổ mèo; tuy vậy, chúng đều căm ghét kẻ thù của chúng và đồng tình sẽ treo cổ nó lên. Những con chuột ấy thật là hơn hẳn "những con chuột An Nam" không biết căm thù "những con mèo Pháp" vì những con chuột này không biết đoàn kết lại để bàn việc tiêu diệt những con mèo kia, chúng sợ rằng trong hàng ngũ chuột của chúng sẽ có con đi báo với mèo Pháp.
Những người tự hào là dòng giống Rồng Tiên lại không bằng chuột! Thật là hổ thẹn, có phải không thưa ông!” (Tập 2, tr 164).
Bác Hồ đã coi truyện ngụ ngôn như là một thứ vũ khí cách mạng, để phê phán, tố cáo kẻ thù, để cảnh tỉnh, thức tỉnh người nô lệ, kêu gọi dân ta đoàn kết, để giải thích tình hình… Chúng tôi tìm thấy một chi tiết trong Trả lời ông Vaxiđép Rao, thông tín viên hãng Roitơ, Người mượn câu chuyện ngụ ngôn để vạch trần một cách đích đáng luận điệu xảo trá của thực dân Pháp khi chúng gây hấn trở lại hòng cướp nước ta lần nữa.
“Hỏi:…Xin Chủ tịch cho biết ý kiến về lời tố cáo của những người Pháp nói rằng Việt Nam đã gây ra cuộc xung đột hiện nay?
Trả lời:…Nước Việt Nam không có lợi gì gây chiến tranh để làm cho nhân dân thiệt hại và chịu bao nhiêu tang tóc. Ông hãy nhớ lại bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên Con chó sói và con cừu” ( Trả lời vào tháng 5-1947. Tập 5, tr 134).
Truyện Con chó sói và con cừu kể một chú sói làm đục dòng suối, con cừu ra suối uống nước liền bị sói mắng là đã làm bẩn nước, cừu cãi lại, nói chính sói mới là kẻ gây ra. Chó sói liền đòi ăn thịt cừu. Ngụ ý của câu chuyện thật dễ hiểu: liệu cái lý của kẻ mạnh mà độc ác (như sói) bao giờ cũng đúng? Không phải. Kẻ mạnh mà độc ác luôn đi ngược lại chân lý thông thường. Chỉ cần mượn một câu chuyện ngụ ngôn mà nói được bản chất của vấn đề: Pháp như con sói kia, là kẻ đi xâm lược, gây ra chiến tranh mà còn vu cho người Việt “gây ra cuộc xung đột…”. Đúng là không thể nói những gì, diễn đạt những gì chính xác hơn, hay hơn cách mượn ngụ ngôn này. Cũng thật thâm thúy khi Bác Hồ lấy chính một tác phẩm yêu thích của người Pháp nói chung để hài hước mỉa mai những người Pháp xấu – những kẻ thực dân.
“Lại cũng phải nhận rằng các nhà đi khai hoá của chúng ta đã không từ một sự cố gắng nào để cắm cho mấy con chim sẻ bản xứ- rất dễ bảo và rất ngoan ngoãn - vài cái lông công làm cho chúng trở thành những con vẹt hay những con chó giữ nhà. Và nếu nhân dân châu Phi và châu Á mà được "hoà bình" và "thịnh vượng" đến như thế này, thì chính những "vị đi gieo rắc dân chủ" không biết mỏi mệt đó là con nhặng đánh xe chứ còn ai vào đó nữa?” (Tập 1, tr 144).
Con nhặng đánh xe (la mouche du coche), tức câu chuyện con nhặng trong ngụ ngôn La Phôngten tự khoe mình đã có công đẩy chiếc xe nặng vượt lên con dốc. Nhà ngụ ngôn Nguyễn Ái Quốc mượn câu chuyện này để mỉa mai những kẻ đi khai hoá thuộc địa cũng chẳng khác gì con nhặng ấy. Cái xe “dân chủ” châu Phi châu Á phải tự nhân dân ở đó kéo lên dốc chứ đâu cần (và cũng không thể là) những “con nhặng” các nhà khai hoá!
“Hãy nói đến vụ âm mưu gần đây nhất. Trong khi ở mẫu quốc có một vụ âm mưu bônsêvích nổi tiếng thì ở Đông Dương các ngài thực dân cũng muốn có một vụ âm mưu tương tự và... cuối cùng các ngài ấy cũng nặn ra một vụ âm mưu thật sự, chẳng khác nào như trong câu chuyện ngụ ngôn con nhái muốn phình to bụng như con bò” (Tập 1, tr 38). Một ngụ ngôn của La Phôngten: con nhái nhìn thấy con bò to hơn mình liền cố sức phình bụng để cũng to bằng con bò, rốt cuộc nhái vỡ bụng mà chết. Tác giả chỉ so sánh “một vụ âm mưu” với câu chuyện ngụ ngôn nhưng người đọc sẽ hiểu ngay kết cục của nó: câu chuyện bịa đặt âm mưu “bônsêvích” nọ cũng như con nhái vỡ bụng kia, tức là vì không có sự thật, dựa vào ảo tưởng nên thất bại, lại để cho mọi người chê cười.
Nguyễn Ái Quốc là một trong những người Việt Nam sớm tiếp xúc với văn học phương Tây, nhất là văn học Pháp. Trong tiểu thuyết Búp sen xanh, tác giả Sơn Tùng có kể lại đoạn đối thoại của Nguyễn Tất Thành với cha mình:
“ - Thành, đang làm gì đó con?
- Cha đã về! Con mới mượn được bộ sách Những kẻ khốn nạn, con đã đọc, hay tuyệt cha ạ.
- Quan Phó Bảng Huy cởi khăn áo treo lên móc, giọng ông chua chát:
- Những người khốn nạn, khốn nạn! Con đọc được sách Tây, con có thật tin là ở bên Pháp còn có nhiều người khốn nạn thật không?
- Qua những trang sách, con thấy ở bên Tây có vô số những kẻ khốn nạn cha ạ. Vẫn cái bất công, “kẻ ăn không hết người lần không ra”. Con người bị đày đoạ kinh khủng”.
Bộ sách Những kẻ khốn nạn mà cậu Nguyễn Tất Thành đọc là của Víchto Huygô (1802-1885), nhà văn Pháp nổi tiếng với những tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc, bênh vực con người, tố cáo những bất công. Sau này khi sang Pháp, Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu kỹ về nhà văn này. Trong Thư ngỏ gửi ông Lêông Ácsimbô, có đoạn:
“Thưa ông Ácsimbô, trong lúc đợi cho ông có "một chức tước hiển vinh nhất mà người ta có thể mơ ước đến" thì tôi xin phép nói rằng, nếu trước kia Víchto Huygô biết là hiện nay ông viết ra những đ...iều như thế trên tờ báo của ông ta, thì ông ta đã không sáng lập ra nó” (Tập 1, tr 138).
Tờ báo mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây là tờ Le Rappel xuất bản hằng ngày ở Pari có khuynh hướng chống Giáo hội bênh vực dân nghèo, do Víchto Huygô sáng lập từ 1869 hoạt động đến 1933. Chỉ một chi tiết nhỏ này cũng cho thấy Nguyễn Ái Quốc hiểu biết tường tận báo chí Pháp đương thời.
Theo tiểu thuyết Búp sen xanh thì thời điểm này, khoảng năm 1906, 1907 Nguyễn Tất Thành đang học tiểu học tại Huế đã đọc, học văn học Pháp. Sau này, trong một hồi ký, nữ văn sỹ Xtécnơ nhớ lại: “Tôi được biết rằng, Người rất am hiểu văn học Pháp, và trong thời thanh niên đã từng đọc với tất cả niềm say mê tác phẩm của Huygô, Dôla, Anatôn Franxơ” (Báo Đại đoàn kết, ngày 12-5-1982). Chính Hồ Chí Minh kể lại thời kỳ ở Pháp Người “có ý muốn là viết truyện ngắn”. Rồi “Dám viết thử, là vì có một hôm xem hai quyển truyện nhỏ, một quyển của Anatôn Phrăngxơ, một quyển nữa là của ông Tônxtôi. Xem thấy các ông ấy viết giản đơn lắm, dễ hiểu lắm” (Tập 7, tr 123). Quyển truyện ngắn của Anatôn Phrăngxơ mà Người nói ở đây, rất có thể có truyện Trên đá trắng. Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, chính tác giả đã khẳng định: "Anatôn Phơrăngxơ (Anatole France) và Lêông Tônxtôi có thể nói là người đỡ đầu văn học cho ông Nguyễn".
Trên tạp chí Nhân đạo năm 1904 đăng truyện Trên đá trắng của tác giả Anatôn Franxơ, với bút pháp viễn tưởng tác giả miêu tả cuộc sống của nhân dân lao động trong Liên bang các dân tộc châu Âu khi đang ở đỉnh cao của chủ nghĩa cộng sản năm 2270. Truyện Con người biết mùi hun khói của Nguyễn Ái Quốc có lẽ chịu ảnh hưởng từ Trên đá trắng khi miêu tả một viễn cảnh vào năm 1998 nhân dân kỷ niệm 50 năm cách mạng thành công của một nước Cộng hoà liên bang ở châu Phi. Chúng ta soi lại tiểu sử của nhà văn Pháp nổi tiếng này càng thấy Nguyễn Ái Quốc chịu ảnh hưởng là rất có lý. Anatôn Phrăngxơ (1844-1924), nhà văn Pháp, được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp năm 1896, giải thưởng Nôben về văn học năm 1921. Chính năm 1921 này ông tham gia đảng Cộng sản Pháp. Được coi là một trong những vị tiền bối của văn học vô sản với những tác phẩm xuất sắc: Lịch sử hiện đại (1897-1901), Cơ-ranh-cơ-bi-ơ (1904), Trên đá trắng (1905), Đảo chim cụt cánh (1905), Các vị thần khát nước (1912), Cuộc nổi loạn của các thiên thần (1914)… Các tác phẩm này thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo, đặt ra những vấn đề xã hội chính trị sâu sắc với văn phong nhẹ nhàng trong sáng và giễu cợt thâm thuý.
Trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác Hồ trích hai câu thơ của hai nhà thơ cộng sản Pháp và Nga để động viên, khích lệ thanh niên phấn đấu vươn lên xây dựng chủ nghĩa xã hội:
“Nhà thơ Pháp, đồng chí Vayăng Cutuyariê viết: "Chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của loài người".
Nhà thơ Xôviết, đồng chí Maiacốpxki viết: "Chủ nghĩa cộng sản là tuổi trẻ của thế giới do những người trẻ tuổi xây dựng nên" (Tập 10, tr 305).
Có lẽ từ hai câu nói này Hồ Chí Minh đã khái quát thành một quy luật biện chứng: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” (Tập 4, tr 167).
Thời kỳ hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến văn học đương đại Pháp. Tiểu phẩm phê bình văn học đầu tiên của Người in trên báo Le Paria, số 10, ngày 15-1-1923 có tên Những người bản xứ được ưa chuộng (Indigènes à la mode). Rất đúng với quan niệm văn học phục vụ chính trị, ở bài báo này tác giả dùng phê bình văn học vào mục đích mỉa mai chế giễu chính sách phản động của nhà cầm quyền thực dân và giễu luôn cả thứ văn học ăn theo chính trị phản động, xa thực tế, sáo rỗng. Chúng ta cùng đọc một đoạn Nguyễn Ái Quốc phê bình tiểu thuyết:
“Ngay cả trong các trang tiểu thuyết đăng trên báo, người bản xứ cũng đã giành được địa vị của mình. Ông Angiabe - ấy xin lỗi, ông Anbe Giăng chứ - đã chẳng kể chuyện rằng ở Hội chợ Mácxây có một chàng An Nam kia làm nghề kéo xe đã lọt được vào mắt xanh của một bà đầm xinh đẹp nọ. Sau khi đi thăm hội chợ về, bà bèn cho gọi anh xe đến phòng ngủ lộng lẫy của bà. Và vân vân... Người yêu bị cắm sừng của bà bỗng nhiên tới. Bối rối, lẩn núp, v.v.. Nhưng cái chính của câu chuyện lại ở chỗ khác kia. Nguyên là chàng công tử kia đã đánh cắp được một viên ngọc bích bày ở gian thờ của Đông Dương và đến để khoe với người ngọc của mình. (Ôi! lương thiện vậy thay!). Người An Nam kia đứng nấp đằng sau trông thấy quả tang hành vi đầy tội lỗi ấy, liền nhảy ra đánh cho anh chàng ăn cắp ngã gục, rồi mang lễ vật quý đó về bàn thờ” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996. Tập 1, tr 135, 134).
Tác giả nhại một cốt truyện hư cấu của tiểu thuyết đăng báo qua cách tóm tắt, câu chuyện ấy có không gian: “Hội chợ Mácxây” và “phòng ngủ lộng lẫy”; có nhân vật: “một chàng An Nam kia làm nghề kéo xe”, “một bà đầm xinh đẹp”, “người yêu bị cắm sừng của bà”; có kịch tính cao trào, có cởi nút, có cả lời bình luận mỉa của người kể: “Ôi! lương thiện vậy thay!”. Một cốt truyện khó tin vì nó ngược đời: bà đầm xinh đẹp yêu một anh xe An Nam, anh xe An Nam đánh gục một kẻ cắp vốn “là chàng công tử”…Nhại lại câu chuyện ấy để châm biếm giễu cợt sâu cay sự giả dối của thực chất về cái gọi là “Hội chợ Mácxây” chẳng qua cũng là một sự “ngược đời”, chỉ là trò lừa bịp dư luận, đổi trắng thay đen, lộn sòng các giá trị…
Khi đã trở về phương Đông hoạt động Hồ Chí Minh vẫn theo dõi thường xuyên đời sống chính trị và văn học Pháp. Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, bọn bồi bút của đế quốc thực dân luôn tìm cách bôi nhọ, xuyên tạc, vu cáo đường lối tiến bộ của các đảng cộng sản. Trong Báo cáo về tình hình các đảng phái trong nước đọc tại Đại hội các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở nước ngoài họp tại Liễu Châu (Quảng Tây) tháng 3-1944, Hồ Chí Minh phê bình một vở kịch Pháp để vạch trần âm mưu bỉ ổi này:
“Quân thù mong muốn nước ngoài đồng tình với chính sách khủng bố của chúng, nên chúng quy tất cả các phong trào chống đối ở trong nước, thậm chí cả những hành vi bỉ ổi như phá nhà, cướp của đều đổ tội cho Đảng Cộng sản.
Có một nhà văn Pháp viết một vở kịch, nhan đề là “Hạnh phúc gia đình”. Vai chính trong vở kịch là một cặp vợ chồng mới cưới, cô dâu bị bệnh đau đầu, cô ả khăng khăng cho rằng mình bị cộng sản bỏ thuốc độc; và những chuyện như mèo nhảy làm vỡ đĩa bát trong bếp đến chuyện nướng bánh không chín, nấu súp không ngon, cô ả cũng đổ tội cho cộng sản cả. Qua đó đủ thấy tâm địa của kẻ thù và phản ứng ở nước ngoài là thế nào rồi! Có kẻ cho rằng ở Việt Nam, đâu đâu cũng là cộng sản, tất cả các đoàn thể, các tổ chức đều là cộng sản trá hình, tất cả mọi hành động đều do cộng sản ba đầu sáu tay chỉ huy!
Người Việt Nam có sợ cộng sản không? Không. Cả nước Việt Nam chúng ta, không có một nhà băng nào là của người Việt Nam, không có một người Việt Nam nào là nhà tư bản lớn. Tài sản của chúng ta, một lần đã bị “cộng” cho giặc Pháp, một lần bị “cộng” cho giặc Nhật, còn có cái gì để mà “cộng” nữa?” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000. Tập 3, tr 463).
Một ví dụ tinh tế: ngay tại nước Pháp, một nước có tiếng là văn minh, văn học Pháp có tiếng là rực rỡ, nền chính trị Pháp có tiếng là dân chủ mà còn có những chuyện ngược đời như vở kịch kia, thì một nước như Việt Nam còn đang là thuộc địa Pháp thì những chuyện kẻ thù vu cáo, dựng truyện cho cộng sản là dễ hiểu. Thế là bản chất đểu giả của kẻ thù được phơi bày, nhân dân thì hiểu, những người cộng sản chân chính thì an tâm. Còn riêng cộng sản ở Việt Nam, qua phép chơi chữ hóm hỉnh của tác giả thì, tài sản: không, “còn có cái gì để mà “cộng” nữa” mà thành “cộng sản”.
Ngày 9-4-1925 với bút danh L.T Nguyễn Ái Quốc có một lá thư gửi cho người nhận là ông H. (Thượng Huyền). Khi đưa vào Toàn tập, Nhà xuất bản đặt tên là Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền). Bản gốc tài liệu tiếng Pháp còn lưu tại Viện Lịch sử Đảng. Lá thư thể hiện một quan niệm khá toàn diện về một tác phẩm văn học hay: “Tôi nghĩ rằng một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt”. Ở đây toát lên mấy yêu cầu về tác phẩm: một là, “diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói”, tức là tác phẩm ấy phải đặt ra vấn đề đáng quan tâm nhưng không dài dòng; hai là dễ hiểu, “ai cũng hiểu được”; ba là phải gợi cho người đọc những nghĩ suy về vấn đề tác phẩm đã đặt ra. Các nhà lý luận hiện đại có thể bổ sung thêm một vài ý nào đó, theo chúng tôi cách hiểu của Hồ Chí Minh vẫn là một cách hiểu mẫu mực về một tác phẩm văn học có giá trị.
Hồ Chí Minh chứng minh tác phẩm hay phải có “lối hành văn văn giản dị, chính xác” bằng một câu trả lời ngắn gọn, hàm súc của Tăng Tử trước thầy mình là Khổng Tử. Chúng tôi trích nguyên văn chứng minh sau:
“Có một lần, một vị tướng của Napôlêông đệ nhất bị bao vây ở Oatéclô. Kẻ địch ra lệnh cho ông ta đầu hàng; ông đáp cộc lốc: “Cứt”. Câu nói ấy chỉ có một từ, lại là một từ tục tĩu. Nhưng trong tình thế nguy kịch nghiêm trọng ấy của vị tướng, nghìn lời nói khác cũng không thể nào thể hiện được hơn lòng dũng cảm và sự khinh bỉ của ông đối với kẻ thù. Và chỉ một lời đáp ấy cũng đủ để vị tướng củng cố được đội ngũ của mình. Chỉ câu nói ấy cũng đủ làm cho tên ông vang dội khắp châu Âu. Nó còn được ghi vào biên niên sử cho đến ngày nay và người Pháp ai cũng biết đến lời đáp ấy.
Vì vậy, một lối hành văn giản dị, chính xác hơn hẳn cái lối hành văn rườm rà, hoa mỹ...” (Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền). Tập 2, tr 156).
Ở ví dụ trên thì cái tục được coi là một phương tiện để lột tả bản chất nhân vật. Quan trọng hơn, nó chứng minh cho cách dùng ngôn từ văn học: bằng lượng con chữ ít nhất nhưng phải nói được nhiều ý nghĩa nhất. Hồ Chí Minh yêu cầu có một lối hành văn hàm súc, dễ hiểu, trong sáng qua sự chứng minh hai câu văn sau: “Một câu dài dòng: “một người lạ mặt dừng lại ở bên ngoài để nhìn trộm xem có ai đứng sau vách không”; câu ấy nhất định là không gọn bằng câu: “một tên ăn trộm đứng rình”. Người nhấn mạnh sự dễ hiểu của tác phẩm: “Một tác phẩm hành văn hay mà khó hiểu thì chẳng có ích gì. Ví như, bảo đồng bào chúng ta hãy lắng nghe một người Pháp hay một người Trung Quốc hát: dù cho những ca sĩ ấy là những nghệ sĩ tuyệt vời đi nữa thì họ cũng không lôi cuốn được đồng bào ta”. Dĩ nhiên đây là yêu cầu của Hồ Chí Minh ở năm 1925 về tác phẩm văn học phải phục vụ cho mục đích chính trị cứu nước. Sau này, ở vào một hoàn cảnh khác, Người mượn lời một người bạn Liên Xô (đồng chí L. – trong Bài nói tại Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16-5-1959) để yêu cầu tác phẩm không chỉ là văn học mà còn là cả báo chí nữa:. “Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước khác, người đọc báo chỉ muốn biết những việc thật. Còn bây giờ khác, sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay, thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002.Tập 9, tr 417). Chúng tôi hiểu “hay” và “lạ” là nói về nội dung, còn “văn chương” là nói về hình thức tác phẩm.
Hướng nghiên cứu ký hiệu học quan tâm tới các biểu trưng vì ở đó tập trung cao nhất các lớp mã văn hóa cần bóc tách. Với đối tượng nghiên cứu các văn bản được Hồ Chí Minh viết dưới ánh sáng văn hóa Pháp, một nền văn hóa giàu có biểu trưng thì sử dụng ký hiệu học có nhiều hứa hẹn. Tất nhiên là phải nắm chắc quan niệm của tác giả là viết để phục vụ chính trị, tức là hướng ngòi bút lột trần bản chất những tên kẻ cướp - chủ nghĩa thực dân đế quốc, dưới danh nghĩa đi “khai hóa văn minh” nhưng là đi xâm lược, đi ăn cướp các thuộc địa. Bộ sưu tập động vật (Me’nagerie) là một ngụ ngôn trào phúng mang ý nghĩa luận tội, kết án: “Người ta thường quên, tưởng rằng các nhà bảo hộ của chúng ta lúc nào cũng thi hành cái chính sách của loài đà điểu” (Tập 1, tr 141). Đà điểu là một loài chim lớn sống ở miền nhiệt đới châu Phi có dạ dày rất khỏe, “chính sách của loài đà điểu” (Politique de l’autruche) là một ẩn dụ mỉa tố cáo chính sách vơ vét tham lam vô độ của chủ nghĩa thực dân đế quốc. “Cái con chó ngắn mõm chẳng đã chạy đến nhe bộ răng khả ố của nó ra mà xé toạc cả cơ cấu của Hội nghị Pari đó sao? Thành thử con khỉ phlamăng và con gà trống gôloa phải một mình đương đầu với con phượng hoàng giécmanh ở miền Ruya”. Sau Chiến tranh 1 (1914-1918) các đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị Vécxây để phân chia lại quyền lợi và bàn cách tăng cường bóc lột thuộc địa. “Con chó ngắn mõm” ám chỉ nước Anh, “con khỉ phlamăng” ám chỉ nước Bỉ, “gà sống gôloa”- nước Pháp, “con phượng hoàng giecmanh”- nước Đức. Cách dùng ẩn dụ trào phúng đã làm nổi lên bản chất ăn cướp và những mâu thuẫn quyền lợi không thể dung hòa của chủ nghĩa đế quốc.
Nói về sự nô lệ, phụ thuộc của xứ Đông Dương vào tay người Pháp, chỉ qua một ngụ ngôn đắt giá sau là bạn đọc đã hình dung ra được: “Đông Dương là một cô gái cưng. Cô rất mực xứng đáng với bà mẹ Pháp quốc. Ở bà mẹ có cái gì thì cô ta cũng có cái nấy: nào chính phủ, nào những bảo đảm, nào công lý và cũng có cả âm mưu phiến loạn nho nhỏ nữa. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ nói về hai vấn đề sau thôi”. Và biểu trưng công lý của người Pháp đồng nghĩa với hình tượng kẻ giết người: “Công lý được tượng trưng qua hình ảnh một nữ thần tay cầm cân và tay cầm kiếm. Nhưng Đông Dương lại ở quá xa nước Pháp, muôn trùng cách trở, nên khi nữ thần tới xứ này thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng và biến thành những tẩu thuốc phiện và những chai rượu ty. Trên tay nữ thần tội nghiệp ấy chỉ còn độc cái kiếm để chém giết. Bà đã chém những người vô tội và cũng chỉ chém có họ mà thôi!” (Tập 1, t 37). Để vạch mặt sự thật về nền công lý giả hiệu ở các thuộc địa Nguyễn Ái Quốc mượn ngay chính lời của người Pháp, đây là một cách “lột mặt nạ” đích đáng, không thể chối cãi: “…về nền công lý Pháp ở Angiêri, một nghị sĩ Pháp đã viết một cách châm biếm rằng: "Pháp luật, công lý với người bản xứ ư? Thôi đi! Chỉ có ba toong, súng lục, súng trường, đó mới là những thứ xứng đáng với lũ sâu bọ ấy!".
Hồ Chí Minh cũng hiểu sâu sắc ngôn từ của giới quý tộc Pháp. Vào một buổi tối tại Việt Bắc, Bác mời Hội đồng Chính phủ họp để trao Huân chương cho Bác sỹ Tôn Thất Tùng, Người nói: “Chú Tùng là một Xidovan mà nay được Chính phủ ta tặng Huân chương. Chú phải cố gắng hơn nữa!” (GS Trần Văn Giàu - Hồ Chí Minh vĩ đại một con người. Nxb Chính trị Quốc gia, 2010. tr 758). Những ai hiểu sâu rộng văn hóa Pháp đều hiểu từ Cidovant - danh từ mà Cách mạng Pháp 1789 dành cho các nhà quý tộc. Chỉ một từ này mà có nhiều ẩn ý: Một là rất kính trọng tài năng, nhân cách của “Chú Tùng”; hai là “Chú Tùng” đã từng là “một nhà quý tộc” Pháp, có công với nước Pháp, nay được Chính phủ ta tặng Huân chương, có nghĩa là Chính phủ rất biết trọng dụng nhân tài, dù người tài đó đã từng phục vụ nước Pháp, mà nay quân Pháp lại đang đánh ta. Và còn toát lên một ý khuyến khích, Bác sỹ Tôn Thất Tùng thật đúng như “một Xidovan”, một Xidovan của cách mạng Việt Nam.
Từ trường hợp Hồ Chí Minh, chỉ nói đến phương diện văn học, nếu không nắm vững ngôn ngữ, văn học, văn hóa Pháp tác giả sẽ không thể viết được những tác phẩm mà chính người Pháp thừa nhận là mang chất Pháp hơn cả người Pháp. Và chính nhờ được tiếp thu, học tập, kế thừa tinh hoa văn học Pháp đã góp phần tạo ra một phong cách văn chương Hồ Chí Minh độc đáo, kiệt xuất sau này.
NTT