Quan niệm của Bác Hồ: Người cách mạng phải làm “đày tớ” cho dân!

Thứ Ba, 12/11/2019 09:26

.NGUYỄN HẢI THANH

 

Bác Hồ nói nhiều về trách nhiệm và bổn phận của người cách mạng là phải làm đầy tớ cho dân. Được thể hiện ở những phương diện nào?

Trước hết phải gần dân. Ngày 21-7-1956, nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá I, Trường đại học nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh lấy cách ngôn của đạo Khổng, coi đó là “hạt nhân” của đạo đức cách mạng:

“Những điều các bạn nghiên cứu được ở đây có thể ví như một hạt nhân bé nhỏ. Sau này, các bạn sẽ tiếp tục săn sóc, vun xới, làm cho hạt nhân ấy mọc thành cây và dần dần nở hoa, kết quả.

Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân".

Nói tóm tắt, minh minh đức tức là chính tâm. Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.

Nói một cách khác, tức là "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”[1].

Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại ý ấy, gắn cách ngôn này với mục đích vì dân của Đảng ta: “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Lúc khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau…Chắc các đồng chí đều hiểu câu: "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, chớ không phải: “Tiên thiên hạ chi lạc nhi lạc, hậu thiên hạ chi ưu nhi ưu”[2].

Người nhắc nhở cán bộ qua những hình tượng cụ thể nhất:

“Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều là đày tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân”[3].

Câu: "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, có nghĩa là lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ là câu của Phạm Trọng Yêm đời Tống đánh giá về Đỗ Phủ, được người đời sau coi đó là một phẩm chất của người quân tử. Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, phẩm chất người cách mạng không đồng nhất nhưng thống nhất với quan niệm vị tha của đạo Khổng Mạnh.

Phải thương dân. Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã tuyên bố đường lối chính nghĩa “yên dân”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Hồ Chí Minh tiếp thu đạo lý lớn lao ấy của Nguyễn Trãi: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề...là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ bị áp bức”[4]. Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh là trọng hoà bình, là không muốn chiến tranh. Khi cả nư­ớc chuẩn bị phải b­ước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ tuyên bố với thế giới rằng: "Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hoà bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh... Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách... Như­ng cuộc chiến tranh ấy, nếu ngư­ời ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm..."[5]. Rõ ràng để trở thành nhà quân sự kiệt xuất là ngoài ý muốn của Ngư­ời, không hề muốn chiến tranh, như­ng cần thiết thì Người cùng cả dân tộc buộc phải tiến hành chiến tranh để giành độc lập, tự do, để cho xứ sở này luôn tràn ngập ánh trăng hoà bình nh­ư trong những áng thơ của Ngư­ời vậy.

Khi bắt buộc phải tiến hành chiến tranh thì trong quan niệm của Người là làm sao để tránh được tổn thất cả cho ta cả cho địch. Từ quan niệm thực sự nhân văn này đã hình thành một chiến lược quân sự đánh địch "chủ trương bằng mưu, không dùng đến binh mà thắng được địch nhân”. Tư tưởng của Người ở ngày hôm nay vẫn đậm tính thời sự, không chỉ phù hợp với chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước của Đảng ta mà còn phù hợp với xu thế chung của bối cảnh toàn cầu hoá, con người ở mọi quốc gia hiểu biết nhau, gần gũi, thân thiện nhau hơn:

"Phép dùng binh, giữ toàn nước địch mà ta thắng lợi là khéo nhất. Phá tan nước địch chỉ là khéo thứ hai. Giữ toàn quân đội địch mà ta thắng, là khéo nhất. Phá tan quân đội địch mà ta thắng, chỉ là khéo thứ hai.

Cho nên đánh hơn trăm trận, không phải là giỏi nhất. Giỏi nhất là không phải đánh mà quân địch phải thua.

Cho nên dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới đánh bằng binh. Vây thành mà đánh là kém nhất”[6]. Như vậy điểm quan trọng nhất trong phép dùng binh được Người đánh giá "khéo nhất”, "giỏi nhất” là "không phải đánh mà quân địch phải thua”. Ba mảnh đoạn này cấu trúc theo lối nhân quả, hai mảnh đoạn đầu thực ra chỉ là một nguyên nhân, sự có mặt của tất cả các câu trên để dồn vào ý câu cuối: Giỏi nhất là không phải đánh mà quân địch phải thua . Từ nguyên nhân ấy dẫn đến kết quả: “Cho nên dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới đánh bằng binh”. Đánh bằng mưu là đánh như thế nào? Là kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông: Mưu phạt tâm công. Xét đến cùng như thế cũng là vì trọng dân, thương dân, không muốn dân đổ máu.

Phải tin dân. Nhà văn Đặng Thai Mai kể năm 1946, khi nhóm chuẩn bị bản Dự thảo Hiến Pháp trình Bác, Bác hỏi xem có ai thắc mắc gì không, Đặng Thai Mai thưa: “- Không biết chúng ta ban bố quyền bầu cử cho toàn dân có sớm quá không? Dân chúng ta hiện giờ người mù chữ còn tới 80, 90%”. Bác cười, giơ ngón tay chỉ vào tôi, nói: “- Chú là người thảo hiến pháp mà không khéo lại phản động đấy, người mạng trước hết phải tin vào nhân dân”[7]. Cuối năm 1963 đồng chí Dương Bá Nuôi cán bộ Quân khu Trị-Thiên-Huế ra báo cáo tình hình cho Bác. Người hỏi đi bằng đường nào. Đồng chí nói đi đường núi, vì đi đường đồng bằng không an toàn. Bác ngạc nhiên: “Làm cách mạng mà đi trong dân lại không an toàn à? Đi trong dân mới ăn chắc!” [8]. Đấy là quan điểm gần dân, thân dân, coi dân như ruột thịt. Thế cho nên chúng ta thấy Bác luôn yêu cầu nghệ sỹ phải luôn hướng về cuộc sống. Nhà văn Vũ Ngọc Phan thuật lại việc một lần đi thăm Triển lãm hội hoạ, Bác nói: “Các chú viết và vẽ thì phải chú ý đến công nông, phải viết về công nông, vẽ về công nông”[9]. Ngày 1-7-1947 gửi thư cho thi sỹ Huyền Kiêu sau khi nhận được bản trường ca Hồ Chí Minh-tinh hoa dân tộc do nhà thơ gửi tặng, Bác Hồ viết: “…Tôi đã nhận được bản trường ca của chú với nội dung cổ vũ đồng bào và chiến sỹ ta hăng hái kháng chiến… Thế là rất tốt”[10].

Bác Hồ có một niềm tin tuyệt đối vào dân vì tìm thấy ở họ những vẻ đẹp tuyệt vời, bền vững nhất. Ngày 1-5-1966, sau khi xem Đoàn văn công Quảng Bình biểu diễn, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ: “Nhân dân ta thật anh hùng. Chiến đấu ác liệt như thế, gian khổ như thế mà vẫn lạc quan ca hát. Một dân tộc như thế không một thế lực hung bạo nào có thể khuất phục được”[11].

Hai chữ “đày tớ” được Người dùng 57 lần (thống kê trong Hồ Chí Minh toàn tập) là một từ ghép, chỉ người phục vụ vô điều kiện, tuyệt đối trung thành. Từ này thì ai cũng hiểu vì đã trở nên quen thuộc trong truyện cổ dân gian, trong tục ngữ ca dao và cả trong đời thường nên được tác giả sử dụng để nói về bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ của người cách mạng phục vụ vô điều kiện, tuyệt đối trung thành với nhân dân:

“Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đày tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”[12].

“Nói về người cách mạng và đảng cách mạng, nhà đại văn hào Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ:

"Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ,

Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu".

Xin tạm dịch là:

"Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ,

Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng".

"Nghìn lực sĩ" có nghĩa là những kẻ địch mạnh, thí dụ: lũ thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ. Cũng có nghĩa là những sự khó khăn gian khổ.

"Các nhi đồng" nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành, đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc ích quốc, lợi dân”[13].

Nguyễn Trãi yêu cầu “ phàm người có chức vụ coi quân trị dân... đối dân tận hoà, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng; bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc của quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo của mình”. Bác Hồ, ngay từ những ngày đầu giải phóng đã đề ra nhiệm vụ “ Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”[14].

Để xứng đáng là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”, Bác Hồ yêu cầu cán bộ phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Người từng lên tiếng báo động: “Đề phòng hủ hoá...có người hủ hoá, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán...”[15]. Người đề ra một tiêu chuẩn của người cách mạng là “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ”, học Nguyễn Trãi, Bác Hồ cũng dạy cán bộ “không lợi dụng danh nghĩa Uỷ ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình”[16].

Thậm chí có lúc Người nhắc đi nhắc lại hai chữ này để nhấn mạnh: “Chính phủ Cộng hoà Dân chủ là gì? Là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi[17].

Nhưng dân phải có trách nhiệm giữ nước. Ngày 23-12-1946, nghĩa là chỉ sau 4 ngày ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chủ tịch có bài viết quan trọng có tên Hỏi và trả lời nêu ngắn gọn đường lối, phương châm kháng chiến, trong đó Người làm hai bài ca dao. Bài 1 nói về nhiệm vụ chung của toàn dân là phải giữ nước, giữ như người mẹ của mình:

“Dân ta phải giữ nước ta,

Dân là con nước, nước là mẹ chung”[18].

N.H.T

 


[1] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 8, tr 215.

[2] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 10, tr 463.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 7, tr 392.

[4] Nhà nước và pháp luật Việt Nam- Nxb Pháp lý, 1990, tr 174. Chuyển dẫn từ sách Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003, tr 378.

[5] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 4, tr 473.

[6] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 3, tr 518.

[7] Hồ Chí Minh với văn nghệ sỹ, văn nghệ sỹ với Hồ Chí Minh, tập 4. Nxb Hội Nhà văn, 2012, tr 38.

[8] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 8, tr 480.

[9] Lữ Huy Nguyên (sưu tầm, biên soạn) – Bác Hồ với văn nghệ sỹ. Nxb Văn học, 1995, tr 60.

[10] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử - Nxb Chính trị Quốc gia, 2006, tập 4, tr 98.

[11] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử- Nxb Chính trị Quốc gia, 2006, tập 9, tr 402.

[12] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 5, tr 30.

[13] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 6, tr 184, 185.

[14] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 5, tr 245.

[15] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 4, tr 21.

[16] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 4, tr 23.

[17] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 5, tr 60.

[18] Hồ Chí Minh toàn tập (1996-2000), 12 tập. Nxb Chính trị Quốc gia, tập 10, tr 129.

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Bóng thầm mà rực rỡ trên mỗi trang văn

Sau những giờ lên lớp về lí thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác... (CHÂU LA VIỆT) 

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu trong "Vượt lũ"

Anh Tựu của chúng tôi, ngoài đời là Thầy thuốc Ưu tú, tiến sĩ, dược sĩ chuyên khoa II Trần Tựu... (KIỀU BÍCH HẬU)

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Giọt nước mắt mang hình vết thương

Cứ chiều chiều bà xay bột, tối tráng bánh rồi phơi, phơi đến khô thì mang ra chợ, vừa quạt than nướng vừa bán... (VŨ THANH LỊCH)

Tiếng chim bắt cô trói cột

Tiếng chim bắt cô trói cột

Chẳng biết bắt đầu từ đâu, nhưng trong kí ức của một đứa trẻ đôi lần lên núi kiếm củi, bứt lá rừng về lót chuồng cho lợn cho bò, thi thoảng gặp bụi sim chín ửng… thì núi sau lưng làng tôi được bắt đầu từ mé sông... (HỒ MINH TÂM)