Nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất (1975–2025), văn học Việt Nam một lần nữa đứng trước ngã ba của những lựa chọn lớn: giữa truyền thống và cách tân, tự sự dân tộc và tự sự cá nhân, cùng chân thực hiện thực và sáng tạo hư cấu. Tại các hội thảo tổng kết do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức trong tháng 10, giới sáng tác và nghiên cứu cùng nhìn lại chặng đường 50 năm văn học - một hành trình vừa tự hào, vừa day dứt như chủ đề Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng.
Hội thảo tổ chức sáng 6/10/2025, đã một lần nữa khẳng định giá trị nhân văn, cùng nền văn học luôn song hành cùng lịch sử dân tộc, luôn đặt con người vào trung tâm của mọi sáng tạo. Những tiếng nói từ các thế hệ nhà văn, nhà nghiên cứu cho thấy, dù con đường phía trước còn nhiều thử thách, nhưng khát vọng làm mới tư duy nghệ thuật, khẳng định phẩm giá con người Việt trong thế kỷ XXI vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.

Đoàn chủ tịch từ phải sang: PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình VHNT Trung ương; Đại tá, nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và PGS.TS, nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp
Gọi tên vật cản - đối diện chính mình
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, mở đầu hội thảo bằng lời tự vấn thẳng thắn: “Tổng kết không phải để khép lại, mà để gợi mở những vấn đề của văn học Việt Nam đang phải đối diện”. Ông cho rằng, suốt 50 năm qua, văn học Việt Nam đã đi qua những chặng đường vô cùng quan trọng - từ giai đoạn thống nhất, Đổi mới cho đến hội nhập toàn cầu - nhưng chân dung văn học Việt Nam vẫn rời rạc, chưa xác lập được vị thế xứng đáng.
“Vật cản to lớn, khó khăn, phức tạp nhất trong sáng tạo văn chương chính là nhà văn. Khi chúng ta không thoát được ra khỏi chính chúng ta, không dám rời bỏ con đường mòn đã đi, không dám rời bỏ khu vực an toàn, thì chúng ta không thể vượt qua được” - Chủ tịch Hội Nhà văn nhấn mạnh - “Nhà văn sẽ bị AI chiến thắng nếu đánh mất bản lĩnh cá nhân và xúc cảm riêng. Còn nếu để AI thay thế, nghĩa là chúng ta đã kết thúc văn học - kết thúc nó trong bản thể của chính mình”
Những lời phát biểu này không chỉ gợi ra nỗi lo của giới sáng tác mà còn đặt lại câu hỏi về sức sống nội sinh của nền văn học Việt Nam trong kỷ nguyên số.
Phản biện xây dựng ý kiến về trí tuệ nhân tạo, nhà văn Đỗ Thị Tấc cho rằng mình không sợ AI vì “Tôi có những cái mà AI không có. AI là thư viện số khổng lồ. Còn tôi, với tư cách là một người viết, tôi không chỉ có hiện thực mà trong tàng thức tôi còn có những thức mà hiện thực không có và AI không lấy được của tôi, tôi cũng không lệ thuộc vào AI nên không sợ. Người cầm bút không có cái riêng của mình, điều mà AI không có thì mới sợ”.
Bà cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, đời sống văn học Việt Nam hiện nay sôi động không phải vì những tác phẩm xuất sắc, để lại dấu ấn thời đại mà lại là những câu chuyện bên lề, nói xấu, hạ bệ, phê phán nhau. Như vậy không phải là mục đích hướng tới của văn học trong quá trình phát triển cùng đất nước.
Hai luồng nhìn - hai bán cầu của thực tại
Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Bình Phương, trong bài phát biểu khai mạc, đã mô tả một cách nhìn hai chiều về văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ: vừa tự hào, vừa trăn trở.
Ông nói: “Ở khía cạnh vị nhân sinh, có ý kiến cho rằng 50 năm qua nền văn học của chúng ta đã làm tốt thiên chức và sứ mệnh của mình để khắc họa được tình thế của dân tộc và thân phận của con người trong dòng chảy đầy biến động của lịch sử phát triển, ngay cả trong hòa bình.
Và 50 năm qua, văn học của chúng ta cũng đã dũng cảm mổ xẻ những vấn đề nóng bỏng nhất của xã hội. Văn học cũng khâu vá được những vết thương hậu chiến trong lòng dân tộc. Và kiến tạo được những nét văn hóa riêng.
Nhưng ở mặt bên kia của vấn đề, thì có những ý kiến cũng rất nghiêm khắc cho rằng 50 năm qua văn học của chúng ta chưa làm tốt được chức năng của mình trong việc kiến tạo đời sống tinh thần xã hội theo hướng nhân văn và tốt đẹp. Còn lẩn tránh những sự thật, lẩn tránh những góc khuất mà đời sống con người đang vấp phải. Văn học chưa kịp thời rung những tiếng chuông cảnh báo về những giả dối của xã hội và của con người, cũng như trên mặt đạo đức, lý tưởng và phẩm giá”.
Bài phát biểu của Nguyễn Bình Phương như một bản tường trình trung thực, cho thấy giới sáng tác đang nỗ lực nhìn lại chính mình bằng tinh thần tôn trọng ý kiến khác biệt – điều ông gọi là “yếu tố sống còn của sáng tạo nghệ thuật”.

Hội thảo thu hút hơn 100 nhà văn, nhà nghiên cứu văn học trong cả nước
Từ “văn học minh họa” đến khát vọng tự do sáng tạo
Giáo sư Nguyễn Văn Dân, trong tham luận Văn học Việt Nam từ ngày thống nhất - một số vấn đề tồn đọng, khẳng định: sau năm 1975, văn học nước ta đã có một cuộc chuyển hóa căn bản. Nếu trong chiến tranh, “cái ta” và “cái hùng” là phạm trù trung tâm thì từ Đổi mới 1986, “cái tôi cá nhân” đã trở thành đối tượng thẩm mỹ mới. Ông dẫn lại bài Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa của Nguyễn Minh Châu (1987) như “một tuyên ngôn mỹ học thời kỳ Đổi mới”, đặt lại ba câu hỏi cốt tử: sáng tác thế nào, sáng tác cái gì và sáng tác cho ai.
GS Dân nhận định: “Văn nghệ phải có tự do sáng tác; văn nghệ phải phản ánh đúng bộ mặt thật của hiện thực chứ không minh họa cho đường lối; văn nghệ phải viết cho dân chúng chứ không viết cho người lãnh đạo.”
Từ đó, ông khẳng định, văn học đương đại đã trở nên gần gũi hơn với con người Việt Nam và con người nhân loại, song vẫn chưa đạt được những tác phẩm đỉnh cao do còn thiếu những sáng tác viết về thân phận con người - điều từng làm nên tầm vóc của văn học thế giới.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến lại cho rằng, nếu chiến tranh buộc văn học phải đứng về phía ánh sáng, thì hòa bình đặt lên vai nhà văn một sứ mệnh khác - sứ mệnh hòa giải - “Hòa giải, hòa hợp dân tộc không chỉ là nhiệm vụ của chính trị hay xã hội, mà còn là sứ mệnh thiêng liêng của văn chương. Bởi văn chương có thể chạm đến những tầng sâu nhất của ký ức và tình cảm con người, nơi mọi định kiến, ranh giới, chiến tuyến cuối cùng cũng sẽ bị xóa nhòa”.
Ông nhấn mạnh, văn học Việt Nam không thể phủ nhận vai trò của văn học thời chiến: “Thơ chống Mỹ của chúng ta viết nhân ái bao nhiêu, thương yêu con người bao nhiêu. Anh có thể phê phán con người trong một tác phẩm, nhưng anh không được khinh bạc con người. Lịch sử lúc đó tạo nên nhà văn như thế, nhà thơ như thế. Chúng ta không được phép lãng quên".
Từ đó, ông kêu gọi một nền văn học của “niềm tin nhân văn”, vừa biết đối diện với bóng tối, vừa giữ lại ánh sáng từ truyền thống nhân hậu Việt Nam.
“Chờ một cuộc chuyển giao thế hệ”
Trong tham luận có tính khái quát lịch sử, Giáo sư Phong Lê đặt ra một câu hỏi mang tính thế hệ: “Ai sẽ là lực lượng chủ công đưa văn học Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới?”
Ông khẳng định: “Lực lượng chủ công trong đội ngũ viết hôm nay, theo tôi nghĩ và mong đợi, đó phải là thế hệ ở tuổi ngoài 20 đến dưới 40. Thế hệ này gần như không phải chịu một sức ép nào của truyền thống hay lịch sử, mà chỉ chịu một sức ép lớn nhất và duy nhất là sức ép của thời đại”. Ông tin rằng, “chỉ một thế hệ trẻ, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể của hoàn cảnh, mới có thể đưa đời sống văn học vào một bước ngoặt mang tính cách mạng.”
Với cái nhìn của người đã sống trọn ba cuộc chiến và hơn nửa thế kỷ đổi thay, GS Phong Lê kết luận bằng một hình ảnh đầy lạc quan: “Được chứng kiến sự xuất hiện và thay thế của thế hệ ấy cũng đã là một hạnh phúc lớn. Bởi hơn cả sự thay thế, đó là một đứt gãy tự nguyện - không gây tiếc nuối, không đau đớn – mà chỉ là biểu tượng của phát triển”.
Hướng về phía trước: Vượt qua chính mình
Hội thảo tổng kết 50 năm văn học Việt Nam không khép lại bằng những bản tổng kết định lượng, mà mở ra những vấn đề cần tiếp tục trả lời - như cách Chủ tịch Nguyễn Quang Thiều khẳng định: “Đây không phải là cuộc tổng kết, mà là một bản gợi mở.”
Từ các tham luận, có thể nhận thấy ba tầng câu hỏi lớn mà giới văn nghệ đang tự đặt ra cho mình: Văn học Việt Nam sẽ đi theo con đường nào trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và công nghệ số? Ai sẽ gánh vác sứ mệnh định hình chân dung văn học thế kỷ XXI? Và quan trọng nhất: chúng ta có đủ dũng cảm để “vượt qua chính mình” - như lời ông Thiều - để phá bỏ những vật cản vô hình đang trói buộc sức sáng tạo?
Nửa thế kỷ qua, văn học Việt Nam đã đi qua những khúc quanh của lịch sử, đã biết tự chất vấn và tự làm mới mình. Sự thành thật với hiện thực, tinh thần nhân bản và ý thức đổi mới vẫn là ba trụ cột của mọi sáng tạo. Cuộc “lên đường” hôm nay, vì thế, không còn là hành trình ra mặt trận, mà là hành trình đi sâu vào thân phận, vào tâm thức con người – nơi văn chương tìm lại ý nghĩa tồn tại của chính nó.
Sau gần 3 tiếng đồng hồ, hội thảo đã hoàn thành những nội dung cơ bản đã đề ra, Ban Tổ chức đã nhận được 10 tham luận, trong đó 7 tham luận đã được trình bày cùng 5 ý kiến phát biểu, trong đó có những ý kiến phát biểu rất thẳng thắn. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp kết lại hội thảo bằng ý kiến: “Chúng ta học quá khứ là để chuẩn bị cho tương lai. Chúng ta nghiệm lại những thời đã qua là để sống cho thời bây giờ. Và thời bây giờ sẽ là nền móng của mai sau. Tôi nghĩ đấy là những chuyển động ngầm, mầm của văn hóa và là sự bất diệt của văn hóa. Cho nên câu chuyện của một thời và câu chuyện của muôn thời là câu chuyện đặt ra cho bất cứ một nhà văn nào trong quá trình sáng tạo. Tôi cho rằng hôm nay những vấn đề này mới được sới lên. Và không có một hội thảo nào có thể kết luận được. Theo tôi, hội thảo là mở ra những vấn đề, kích hoạt những suy nghĩ và tìm ở chúng ta những tiếng nói hướng về sự phát triển của nền văn học”.
Văn học Việt Nam bước qua tuổi năm mươi trong hòa bình, nhưng hành trình sáng tạo thì mới chỉ bắt đầu. Từ trong đối thoại, phản biện và khát vọng tự do, một vụ mùa mới của văn học dân tộc đang được gieo xuống - mùa của “những người viết trẻ” mà GS Phong Lê gọi là “lực lượng chủ công của thế kỉ XXI”, mùa của những tiếng nói dám đối diện với sự thật, khẳng định tính nhân văn trong văn học, và mơ về những đỉnh cao chưa từng có.
HOÀNG OANH
VNQD