Cách đây tròn 70 năm, ngày 07/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên phủ đã kết thúc thắng lợi. Đây là chiến thắng to lớn nhất, vĩ đại nhất của của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954); là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954. Với chiến thắng này, quân và dân ta đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp tại Đông Dương, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
Trong các nguyên nhân làm nên chiến thắng vĩ đại của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, có một nguyên nhân hết sức quan trọng, mang tính quyết định, đó là công tác hậu cần, đảm bảo về nhân tài, vật lực phục vụ chiến dịch.
***
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận: Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận”[1]; “Các chú phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ. Đó là bổn phận của các chú”[2]. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tổ chức, đảm bảo hậu cần trong chiến tranh.
Đối với Mặt trận Điện Biên Phủ, công tác bảo đảm hậu cần càng trở nên hết sức quan trọng, có vai trò quyết định đến sự thành bại của chiến dịch, góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của Chiến dịch lịch sử này.
Nhìn lại tình hình chiến cuộc lúc đó, ta thấy:
Bước vào năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đã sang năm thứ tám. Ta đang chuyển mạnh sang giai đoạn tổng phản công. Thực dân Pháp bị sa lầy và đang suy yếu nghiêm trọng. Chi phí chiến tranh tăng cao và tình hình chính trị xã hội ở Pháp bất ổn, khiến chúng không còn đủ sức chịu đựng cuộc chiến này. Pháp đang muốn rút khỏi cuộc chiến. Trong khi đó, với âm mưu thế chân Pháp tại Đông Dương, Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp, chuyển giao cho Pháp nhiều trang thiết bị, vũ khí hiện đại nhằm làm cho Việt Minh suy yếu. Ngày 7/5/1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, Pháp cử tướng Henri Navarre sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp. Ngày 24/7/1953, Kế hoạch quân sự Navarre ra đời, với mục tiêu là trong vòng 2 năm sẽ xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương để có thể "kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
Tại mặt trận Tây Bắc, sau thất bại tại chiến dịch Thượng Lào, để đối phó với quân chủ lực của ta, cuối năm 1953 Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm án ngữ vùng Tây Bắc, cắt đứt tuyến đường từ Lai Châu sang Thượng Lào, đồng thời làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Sau khi chiếm Điện Biên, quân Pháp đã nhanh chóng biến nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Navarre đã cho xây dựng ở Điện Biên Phủ 2 sân bay là Mường Thanh và Hồng Cúm; tổ chức một cầu hàng không nối Điện Biên với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai để đưa lực lượng, vũ khí, khí tài và trang thiết bị quân sự lên Điện Biên. Có thể nói, việc tổ chức hậu cần của quân Pháp tại Điện Biên Phủ được thực hiện hết sức khẩn trương bằng các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ.
Ngày 7/12/1953, Đại tá Christian de Castries được bổ nhiệm làm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Giới quân sự Pháp và Mỹ nhận định: Việt Minh chưa có kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm mạnh. Mặt khác, chiến trường Điện Biên Phủ xa hậu phương của ta, nên ta không có khả năng huy động chi viện cho chiến dịch với quy mô lớn, diễn ra dài ngày. Nếu tiến công, quân đội ta sẽ không tránh khỏi thất bại. Từ nhận định đó, Bộ chỉ huy Pháp ở Đông Dương đã coi Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá”; đồng thời thả truyền đơn thách thức Quân đội nhân dân Việt Nam tiến công. Tướng Cogny đã tin tưởng: "Chúng ta đến đây là buộc Việt Minh phải giao chiến, không nên làm gì thêm để họ phải sợ mà lảng đi".
Đoàn xe vận tải phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu
Về phía ta, ngày 20/12/1953, Bộ Chính trị đã họp, sau khi phân tích tình hình, nghe Tổng Quân ủy Trung ương đánh giá mức độ, khả năng chuẩn bị cung cấp cho mặt trận và thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và xác định đây sẽ là trận quyết chiến chiến lược, nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Để giành được thắng lợi trong chiến dịch lịch sử này, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ chí Minh đã chỉ định Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội, Bí thư Tổng Quân ủy trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch. Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương. Đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách các vấn đề về đường sá và cung cấp của chiến dịch.
Quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ của Bộ Chính trị (6/12/1953) là một chủ trương rất kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo, đầy bản lĩnh và kịp thời, thể hiện quyết tâm rất lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, đánh dấu bước phát triển mới trong lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng ta cũng như sự lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm tạo bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, nếu chọn Điện Biên phủ làm trận quyết chiến chiến lược, ta phải chấp nhận những khó khăn vô cùng to lớn. Đó là bằng mọi cách, phải di chuyển toàn bộ lực lượng tham gia tác chiến lên mặt trận; phải cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm, vũ khí, khí tài, đạn dược, quân trang, quân dụng; tổ chức cứu chữa thương bệnh binh, thực hiện chính sách hậu phương quân đội cho một lực lượng rất lớn tại một địa bàn xa hậu phương hàng ngàn km bằng đường bộ. Đó là một khối lượng vận chuyển khổng lồ, trên những con đường độc đạo, chủ yếu bằng sức người, qua rất nhiều đèo cao, vực thẳm và sẽ luôn bị địch đánh phá một cách hết sức khốc liệt. Bên cạnh đó, các tỉnh Tây Bắc là địa bàn dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn, thời tiết, khí hậu rất khắc nhiệt. Những khó khăn và thách thức trên là rất lớn và không dễ vượt qua đối với quân đội và nhân dân ta trong giai đoạn lịch sử ấy.
Thấy rõ những khó khăn khi đánh Điện Biên Phủ, Tổng Quân ủy đã nhận định “Để tiến hành chiến dịch rất lớn này, ta có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là cung cấp, mà chủ yếu là vấn đề đường sá”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đánh giá “Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật, khó khăn về cung cấp thực không kém khó khăn về tác chiến.”[3]
Lực lượng dân công hoả tuyến cũng đã tham gia tích cực trong việc bảo đảm hậu cần cho Chiến dịch Điện Biên Phủ trên các tuyến đường mòn, vượt rừng, sông suối. Ảnh tư liệu
Thực hiện chỉ đạo của Tổng Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy mặt trận, công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được xúc tiến hết sức khẩn trương với rất nhiều lực lượng tham gia. Nhiệm vụ chủ yếu của công tác hậu cần là mở đường ra trận. Từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954, ta đã huy động hơn 260 nghìn dân công hỏa tuyến, trong đó có 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung phong phối hợp với bộ đội công binh, làm mới 89 km từ Tuần Giáo lên Điện Biên; sửa chữa 200km đường 41 từ Hòa Bình lên Sơn La; 300km đường từ Yên Bái lên Sơn La bảo đảm cho xe ôtô, phương tiện thô sơ có thể vận chuyển liên tục, phục vụ chiến dịch dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù.
Nhằm cắt đứt con đường tiếp vận của ta lên Điện Biên Phủ, địch đã tập trung lực lượng không quân đánh phá rất ác liệt các tuyến đường. Chúng xác định có 40 điểm có thể cắt đứt hiệu quả lớn. Máy bay địch đã đánh 1.186 trận vào các tuyến giao thông, ngày cao nhất sử dụng 250 lần chiếc máy bay (có cả B26) đánh phá. Các đèo Lũng Lô, dốc Pha Đin và các đầu mối giao thông quan trọng như Cò Nòi, Tuần Giáo, bến phà Tạ Khoa… đã trở thành những tọa độ lửa, thành “yết hầu” mà địch tập trung đánh phá ác liệt nhất. Hàng vạn dân công và thanh niên xung phong đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội cao xạ và lực lượng công binh ngày đêm bám đường, khắc phục hậu quả đánh phá của địch, đảm bảo cho tuyến vận chuyển luôn thông suốt trong mọi tình huống. Trong chiến dịch này, chỉ riêng tại Ngã ba Cò Nòi đã có hàng trăm chiến sỹ thanh niên xung phong anh dũng chiến đấu và hi sinh để bảo vệ con đường.
Với tinh thần yêu nước cao độ, nhân dân ta từ miền xuôi đến miền ngược không ngại khó khăn gian khổ, đã nô nức tham gia lực lượng dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong, đóng góp công sức, vận chuyển hàng hóa ra mặt trận. Cùng với vận tải cơ giới, nhiều tuyến vận tải bộ bằng các loại phương tiện thô sơ đã được tổ chức. Nhân dân Tây Bắc đã đóng 11.600 chiếc bè mảng, tổ chức vận chuyển hàng về đến Lai Châu được hơn 1.700 tấn gạo. Hơn 2 vạn xe đạp thồ của lực lượng dân công đã được huy động phục vụ chiến dịch. Bằng mọi phương tiện có thể huy động, từ giai đoạn chuẩn bị cho đến lúc kết thúc chiến dịch, quân và dân ta đã đóng góp hơn 18 triệu ngày công, tổ chức vận chuyển lên mặt trận Điện Biên hơn 25.000 tấn hàng hóa các loại, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, gần 15.000 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác, đảm bảo cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch, (trong đó lực lượng trực tiếp chiến đấu là 53.830 người, dân công phục vụ là 33.000 người).
Nhân dân Tây Bắc, - trong đó có đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La - mặc dù đời sống còn rất khó khăn, nhưng vẫn tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, nên đã dốc sức đóng góp sức người, sức của, lương thực thực phẩm cho chiến dịch. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, riêng nhân dân Tây Bắc đã đóng góp được 7.360 tấn gạo, chiếm gần 50% lượng gạo sử dụng tại tuyến chiến đấu. Ngoài ra, đồng bào còn ủng hộ bộ đội 389 tấn thịt, khoảng 700-800 tấn rau xanh; động viên hơn 31.818 dân công ngắn hạn, gồm 1.296.078 ngày công làm cầu đường, kho lán và tham gia tích cực vào việc vận chuyển hàng hóa lên mặt trận.
Đoàn xe của Cục Vận tải vượt ngầm ra đưa hàng lên Điện Biên. Ảnh: Triệu Đại
Ngành hậu cần quân đội đã tổ chức tốt công tác phục vụ chiến dịch, tận dụng hết năng lực vận chuyển các loại phương tiện. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta sử dụng tối đa 628 ôtô vận tải hiện có; các đơn vị đã khai thác tốt nguồn hậu cần tại chỗ, huy động sức mạnh của toàn dân phục vụ cho chiến dịch này. Sự sáng tạo, độc đáo trong tổ chức và thực hiện công tác hậu cần phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã làm cho thực dân Pháp hết sức bất ngờ và thán phục. Nhà báo Pháp Giuyn Roa cho rằng “chính là bằng những chiếc xe đạp thồ 200 - 300kg hàng và đẩy bằng sức người..” đã đánh bại tướng Nava. Ký giả người Pháp Jules Roy ghi nhận: “Việt Minh chỉ có khoảng vài trăm xe tải nhưng có hàng vạn dân công. Những đôi quang gánh, đôi bồ, những chiếc xe đạp Pơgiô do Pháp sản xuất thồ được đến 200 - 300kg đã đánh bại tướng Nava”.
Chiến thắng của Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố, nhưng nhân tố giữ vai trò quan trọng nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ của Đảng. Quyết định lịch sử ấy để lại cho cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học và kinh nghiệm quí báu: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi. Những bài học - kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong các chặng đường cách mạng tiếp theo, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trong các nguyên nhân làm nên chiến thắng của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ có một nguyên nhân hết sức quan trọng, đó là quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho bộ đội chiến đấu liên tục, dài ngày trên địa bàn xa hậu phương, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “... Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật, khó khăn về cung cấp thực không kém khó khăn về tác chiến. Tình hình cung cấp khẩn trương từng ngày, từng giờ, không kém tình hình chiến đấu... quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng chúng ta có thể khắc phục được khó khăn này. Đối phương không bao giờ đánh giá được được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù”[4].
NGUYỄN VŨ ĐIỀN
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Sơn La
[1] - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 179.
[2] - Sách Hồ Chí Minh: Những bài viết và nói về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987, t.2, tr.143-148.
[3] - Võ Nguyên Giáp “Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử”, Nxb QĐND, Hà Nội, 2000, tr.291.
[4]- Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb QĐND, 2000, tr. 111-113.
VNQD