. HỮU THỈNH
Mặc dù Lê Thành Nghị viết đến tuổi không còn gì để vội, nhưng đọc tập thơ mới nhất Hoa vàng mấy độ (Nxb Hội Nhà văn, 2024) của anh, ta vẫn bắt gặp một tâm hồn trẻ trung, tươi tốt, với những rung động thơ nhiều biến hóa. Rất dễ nhận ra những cố gắng mới của anh trong biểu cảm, trong cấu trúc, trong tinh lọc ngôn ngữ. Anh đã chú ý nhiều hơn đến tính hàm súc, trừu tượng hóa, dồn nén cảm xúc và vang vọng nội tâm. Thơ ngắn lại nhưng dư âm nhiều hơn. Không gian thơ rất rộng. Khó nói là anh tập trung vào một vấn đề gì nhất định. Thế nên mọi tên đất tên người chỉ còn mang một ý nghĩa biểu trưng nào đó, nhường bước cho sự nở hoa của tâm hồn.
Thơ Lê Thành Nghị bây giờ nhiều ảo hóa, nhiều phi lí và ngẫu nhiên, đem đến những cảm nhận bất ngờ, đột biến cho người đọc. Đó là cách mở rộng không gian nghệ thuật cho thơ, hay nhất mà cũng khó nhất, chạm đến vấn đề cốt tử của tài năng.
Lê Thành Nghị đã gặp khó, một mặt là luôn luôn muốn được hoà hơi ấm với đời sống, mặt khác là tìm mọi cách lạ hóa cảm xúc, tránh nguy cơ xuất hiện những lối mòn, những quen tay. Trong bài Ga nhỏ, tác giả viết:
Tưởng đến tuổi không còn gì để vội
Vẫn không thôi thắc thỏm đường về
Vẫn không hết những lo toan, mệt mỏi
Những phận người nhập nhoạng những bến mê
Một cõi trần sao ngổn ngang đến vậy
Một kiếp buồn sao dai dẳng dường kia?
Một giọng thơ trầm có sức truyền cảm và khá tiêu biểu cho thơ sau chiến tranh. Những câu hỏi không dễ trả lời. Hóa ra đó là chiếc ga nhỏ của cuộc đời. Đi dễ khó về là từ đó. Đụng chạm ngổn ngang và bảo toàn nhân cách cũng từ đó. Một tiếng thở dài giữa bao nỗi niềm để ngỏ. Một nỗi ngậm ngùi giữa bao nhiêu bất an.
Cũng với tâm sự ấy, trong bài Tiếng chim buổi sáng, Lê Thành Nghị còn có dịp thổ lộ tâm trạng của mình giữa bao nhiêu bất trắc:
Đường từ đây về ga cuối cuộc đời
Còn bao xa nữa?
Ai biết được gió bao giờ thì ngừng
Biển bao giờ thì cạn
Sen bao giờ thì tàn?
Trên vai biết bao phiền muộn
Phía trước cát bay vô thường
Sông bao lần nhẫn nại vì thuyền
Buồm mệt lả trôi trong cô đơn!
Hỏi mà như không đợi trả lời. Nhìn cảnh vật như một lời tự thú. Không nên bắt bẻ mà nên chia sẻ với tác giả thì hơn. Cuộc đời là thế đấy. Bởi vì trên vai biết bao phiền muộn. Đây là câu thơ có thể giúp ta đi vào thế giới tâm hồn của tác giả. Tưởng tượng ra những bi kịch là không nên và cũng không cần thiết. Chỉ biết, sau những giông bão khó tránh khỏi, nghị lực sống đã được huy động tối đa để tác giả đã có thể báo với ta sông bao lần nhẫn nại vì thuyền. Ta quý sự thành thật của tác giả, qua một câu thơ nói được với ta rất nhiều điều. Không cho thế là đủ, tác giả còn cho ta biết có lúc buồm mệt lả trôi trong cô đơn. Một câu thơ chỉ có thể xuất hiện sau Đổi mới.
Là một nhà phê bình tên tuổi và một nhà thơ đến tuổi không còn gì để vội, cho phép Lê Thành Nghị nhìn đời sống trong sự vận động kể cả chiều rộng và chiều sâu. Đây là câu thơ khá tiêu biểu cho cách nhìn này của anh trong bài Mưa núi Ba Vì:
Thế gian trẻ lại sau màu nhớ
Đất dưới mưa buồn chợt ấm lên
Đất ấm lên chính là lòng nhà thơ ấm lên đấy. Tâm hồn ấy rất nhạy cảm với cái mới, mà cũng rất dễ nhạy cảm với những nỗi buồn. Đó là sự thống nhất biện chứng, cũng là biểu hiện của một nhân cách đã trưởng thành. Lê Thành Nghị rất dị ứng với cách nhìn đời hời hợt, nông cạn, một chiều, tên gọi của bệnh thiểu năng văn hóa. Chính điều này đã đem đến những cảm hứng phức hợp trong thơ anh:
Hay quá trẻ nên người không thể biết
Cây đã già lá mất ngủ trên cao
Hay còn trẻ nên người không thể thấu
Biển đã đầy những hạt buồn đau?
(Phố ngày mưa)
Nhân gian là cái gì gì
Chưa xong bể khổ lại kề bến đau
(Vu lan nhớ mẹ)
Nơi đây một lần đặt chân đến
Tôi mới hiểu thế nào là sự mong manh của phận người
(Lặng yên nghe sóng vỗ)
Những câu thơ như thế toát lên biết bao tình yêu, nghĩ ngợi và tin tưởng, làm nên sức níu giữ của thơ Lê Thành Nghị. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Anh là người rất chịu đi, chịu nghĩ, chịu đọc. Vì thế thơ anh không đứt gãy với truyền thống, mà là sự đổi mới từ truyền thống. Đó là cái mới thứ thiệt. Vì nó đụng tới cái vô biên của kiếp người. Tôi giật mình khi đọc hai câu mở đầu bài Con đường mùa lá rụng:
Cuối đông con đường lá rụng
Tôi mệt mỏi mấy chục năm cuối đời
Tôi mệt mỏi mấy chục năm cuối đời, đó là một lời tâm sự, một tiếng thở than hay còn gì khác? Chắc là còn rất nhiều cái gì khác. Một câu thơ đau đớn trần trụi. Đọc đến đây tôi không sao đọc tiếp được nữa, đành phải buông sách xuống, chìm đắm mãi trong vòng liên tưởng mà câu thơ đã gợi ra. Xét về câu chữ thì có gì đâu. Nhưng cộng hưởng lại thì thành một thế giới, đúng như Tố Hữu nói, đại ý, thơ hay làm ta quên thơ đi, chỉ còn cảm thấy có tình người. Con đường mùa lá rụng là một bài thơ có cấu trúc rất lạ. Các khổ thơ không được liên kết với nhau theo một logic thông thường. Ngược lại nó như những mảnh vỡ được ghép lại với nhau thông qua nhiều khoảng trống với biết bao mất mát, đau đớn, đơn côi, để đi đến một vùng hơi ấm đột ngột hiện ra như một cuộc hẹn hò từ trước:
Gượng dậy sau vết giày giẫm nát
Cỏ vươn lên với gió ấm sau vườn
Tôi cảm thấy nhẹ hẳn người khi đọc đến hai câu thơ trên. Một người đã trải qua những giằng xé nội tâm như thế, thì việc tìm thấy niềm vui không thể là chuyện dễ dàng. Dù biết rằng thành phố nhà càng cao/ càng mất những chân trời bát ngát và người thưa thớt dù cây vẫn biếc, nhưng tất cả không ngăn nổi tâm hồn tác giả mở ra với thế gian trẻ lại trong màu nhớ/ đất dưới mưa buồn chợt ấm lên/… những bãi xanh non, những vạt hoa vàng.
Đọc thơ lắm lúc rất khó tách bạch thơ với người thơ. Bởi trong các loại hình nghệ thuật, không có nghệ thuật nào giúp người ta hiểu tâm hồn tác giả bằng thơ. Đọc thơ Lê Thành Nghị, tôi bắt gặp một tâm hồn thuần hậu, nền nã, giàu hơi ấm, một sự tao nhã đầy run rẩy và những run rẩy đầy tao nhã. Tôi nhớ mãi hai câu thơ anh viết về Đường Chín rất độc đáo:
Tôi một lần run lên và ngộp thở
Và một đời không hết chập chờn lau
(Kỉ niệm Đường Chín)
Sao trong máu lửa, ác liệt là thế mà lại có những khoảng lặng tinh khôi và thánh thiện đến thế nhỉ?
Với tâm hồn ấy, Lê Thành Nghị lên Quản Bạ và có một bài thơ với cảm nhận rất riêng:
Em buông khăn ấm làm mây nõn
Một vệt ngang trời lau trắng bay
Hai lần viết về lau đều hay và có sáng tạo. Một trong những cái mới của tập thơ Hoa vàng mấy độ là sự xuất hiện những câu thơ bay lượn, nhiều phát hiện và ám ảnh. Chẳng hạn:
Mùi hương mèn mén tan đầu chợ
Có mấy ngôi sao xuống thật gần
Gió lay kèn lá bờ ngô cũ
Đá ngẩn ngơ buồn mỗi dấu chân
(Đêm trên Quản Bạ)
Một chút gió thầm trong nắng muộn
Trời đem mây hạ trộn vào thu
(Thu đến)
Hay quá trẻ nên người không thể biết
Cây đã già lá mất ngủ trên cao
(Phố ngày mưa)
Gần tám mươi tuổi mà vẫn tự vạch đường đi, vẫn hăm hở thử nghiệm, thật đáng quý và đáng trân trọng. Với tài năng đang độ chín, nhất định Lê Thành Nghị còn có thể tạo ra những bất ngờ trong sự mong đợi của bạn đọc.
Nếu như ngày xưa tôi đã từng yêu câu thơ vườn vàng phơi lá thu của Bằng Việt, rất phục câu thơ của Xuân Quỳnh chỉ một tiếng còi tàu/ lòng đã nam, đã bắc, rất bàng hoàng với câu thơ những cánh buồm như kéo cả bờ đi của Thi Hoàng…, thì nay tôi thích thú đến ghen tị với câu thơ em buông khăn ấm làm mây nõn/ một vệt ngang trời lau trắng bay của Lê Thành Nghị.
Ngày 8/1/2025
H.T
VNQD