Hát “trên con đường tóc”

Thứ Năm, 06/11/2025 15:37

Tập thơ “trên con đường tóc” của Trang Thanh (Nxb Hội Nhà văn, 2025) là hành trình thi ca dấn thân, nơi tác giả đối thoại với chính mình, với thế giới để kiến tạo một không gian nghệ thuật riêng biệt. Trong từng thi phẩm, Trang Thanh không né tránh hay che phủ hiện thực khắc nghiệt, mà chọn cách đối diện với những vết thương tinh thần, từ đó hình thành mạch nguồn cảm xúc nhất quán. Trên nền tảng ấy, bóng tối và nỗi đau không bị triệt tiêu mà được chuyển hóa thành tiếng hát - khởi phát từ nguồn cội và kí ức gia đình, lan tỏa qua mất mát, chia li, rồi hồi hướng tới khát vọng hóa giải. Ở mọi cung bậc - yêu thương hay tiếc nuối, khắc khoải hay hy vọng - giọng thơ luôn cất lên từ tầng sâu tâm tưởng như một tuyên ngôn mĩ học: con người có thể hoán cải đau thương thành vẻ đẹp, và từ trong giới hạn kiếp người, khơi mở ước nguyện vươn tới miền tự do tinh thần cùng cuộc sống trọn vẹn.

“người đàn bà đi trong đêm tối đen bằng tóc/ trên con đường vô tận tết bằng muôn sợi tóc rụng/ từ mái đầu nhỏ bé của nàng” (trên con đường tóc). Ẩn dụ “con đường tóc” khắc họa một biểu tượng kép - vừa kiên vững vừa mong manh - nơi mất mát tan hòa vào bước đi bền bỉ, để đau thương hóa thành sức sống và cái phù du kết tinh thành khát vọng. Bóng tối và thương tổn không triệt tiêu con người, mà được chuyển hóa thành lộ trình hướng tới tương lai, phản ánh tinh thần chủ đạo của tập thơ: khổ đau biến thành nhịp điệu sống, đổ vỡ thành nguyện ước, và mong manh thành ý chí kiên cường.

Bố cục tập thơ gồm ba phần - “về trong cuộc người”, “nỗi đau tỏa hương trên cành gai” và “tóc mình viết lên mây” - mở ra hành trình tinh thần liền mạch: từ kí ức và tình thương, qua niềm cay đắng và hóa giải, để cuối cùng vươn đến lí tưởng của cái đẹp. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, khúc ca của Trang Thanh luôn ngân vọng: hát để tôn vinh nguồn cội, tri ân cha mẹ, hóa giải mất mát, biến thương tổn thành vẻ đẹp và lí tưởng sống.

Ở phần mở đầu “về trong cuộc người”, thanh âm trong trẻo, đằm thắm cất lên như một hình thức hồi cố, nâng niu kí ức, kiến tạo không gian tâm tưởng. Việc trở về với gốc rễ - nơi tuổi thơ nguyên sơ, tình mẹ cha ấm nồng, dòng sông lặng lẽ, cánh đồng cần mẫn chắt chiu mùa màng và ngôi làng bình yên in dấu bao buồn vui phận người luôn gợi nhớ. Những hình ảnh đời thường ấy, khi đi vào cấu trúc thơ, đã vượt khỏi giới hạn của kí ức cá nhân để trở thành biểu tượng, nuôi dưỡng giọng điệu trữ tình và định hình mạch cảm xúc. Cũng từ đây, tiếng hát Trang Thanh cất lên chan chứa tình thân, làm sáng rõ chiều sâu nhân bản, nơi gia đình và quê hương trở thành mạch nguồn thẩm mĨ.

“ta vẫn buồn khô/ bóng chim mẹ ngậm mồi bay về tổ/ mẹ già xoay mâm một mình so đũa/ sông bờ này xói lở vệt sâu” (không bóng chim về). Cảm xúc là lời ru êm dịu của kí ức, nỗi trống vắng găm vào hiện tại. Sự chông chênh của dòng sông, nỗi đơn độc của người mẹ, khoảng trống của ngôi nhà… tất cả kết lại thành dư âm nhớ thương, khiến giai điệu vang lên từ niềm gắn bó, từ khoảng sâu mất mát, khơi gợi ở người đọc đồng cảm và mong muốn sẻ chia.

Tập thơ trên con đường tóc của Trang Thanh.

“thế giới này quá chật chội/ trong mỗi người đều có một ngục tù/ ai hiểu rằng tình yêu và tự do/ những sẻ nâu ngày xưa bị con cầm tù/ cũng chỉ thèm bay im lặng” (gửi cha). Không gian cảm xúc mở rộng từ mái nhà và làng quê sang những suy tư mang tính nhân loại. Khúc ngân không còn giới hạn trong nỗi riêng tư, mà chạm đến bản thể con người với những ám ảnh về thân phận, sự hạn hẹp và ý chí vượt thoát. Cảm giác ngột ngạt được đặt cạnh ước muốn bay xa, làm bật lên nghịch lí muôn đời giữa ràng buộc và ước nguyện. Chính trong thế đối lập ấy, thơ Trang Thanh hé mở những chiều kích khác: thanh âm trở thành hành động giải phóng tinh thần, vừa nhân ái, vừa khẳng định sức mạnh bền bỉ của con người.

Cũng trong mạch thơ ấy, hình ảnh làng xóm, con sông, lũy tre, cỏ non, mùa tháng mười, buổi cuối đông… trở thành mã ký hiệu gắn với những tầng bậc cảm xúc. Từ không gian cụ thể của làng quê, thơ Trang Thanh mở ra những trải nghiệm mang tính phổ quát: sự trôi chảy của thời gian, sự mong manh của kiếp người, và khát vọng tìm một điểm tựa tinh thần trong thế giới nhiều biến động. Chính cách thức đặt những hình ảnh bình dị ấy vào dòng chảy cảm xúc đã tạo sức cộng hưởng: người đọc không chỉ nhận ra cội nguồn của tác giả, mà còn thấy bóng dáng quê hương, kí ức của chính mình. Nhờ đó, thơ Trang Thanh vượt khỏi tính tự sự cá nhân để đạt đến chiều kích cộng đồng, nơi mỗi chi tiết đời thường trở thành cửa ngõ bước vào miền kí ức tập thể.

“tôi đi như cỏ vươn mầm vào xuân/ hạ trưa nước nung cá cua chầu giời/ cuối thu còn vọng sáo diều khơi vơi cỏ cháy ruộng xa vườn đông khô nẻ” (về trong cuộc người). Ẩn sau hình ảnh mùa màng và cảnh sắc, con người hòa vào đất trời, vào dòng chảy bất tận của tự nhiên và lịch sử. Giai điệu của Trang Thanh giàu tính hoài niệm, mở ra cách nhìn về sự gắn kết giữa con người và thế giới, khiến mạch thơ tạo dư ba trong tâm thức người đọc. “người sống kẻ thác chung một nguồn sông/ chung một dải đồng, chung mây, chung gió/ làng tôi quanh co khúc ruột đói no/ yêu dấu vườn xưa ai người cấy mộng/ xiêu xo bóng đời hàng tre dỗ giấc/ trưa hạ bơ vơ đại thụ đoạn trần” (về trong cuộc người). Quê hương trở thành không gian văn hóa nơi sự sống và cái chết, no ấm và nghèo đói, mơ mộng và thực tại cùng tồn tại. Trang Thanh biến hình ảnh quen thuộc thành biểu tượng triết lí, khẳng định sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hữu hạn của phận người và sự lâu bền của văn hóa - lịch sử.

Sang phần “nỗi đau tỏa hương trên cành gai”, nhà thơ dẫn bạn đọc vào vùng thẳm của thương tích tinh thần. Khúc ngân lúc này trở thành lời thổ lộ và tâm tình bật ra từ cõi lòng nhiều ẩn ức. Trong không gian đó, âm vang mang dáng dấp của tiếng khóc, có khi gần với lời cầu nguyện. Thơ được cất lên từ những đứt gãy, nơi tâm hồn đối diện với mất mát và trống rỗng. Tuy nhiên, thay vì gục ngã, những vết thương ấy lại trở thành điểm khởi phát cho hành động sáng tạo, giúp lời ca bật sáng sức mạnh tự cứu rỗi. Nhà thơ đặt sự thương tổn vào diễn ngôn nghệ thuật, chuyển hóa nó thành năng lượng tinh thần, mở rộng biên độ cảm xúc thành một khả thể nhân bản.

“vết thương âm hương tháng ba ròng mưa tháng sáu/ gội tóc nàng sen/ đã cất mùa tu thật sâu đáy nước…” (vết thương của nàng sen). Ẩn sâu dưới lớp ngôn ngữ giàu biểu tượng, ta cảm nhận hành trình từ thương tích đến sự lắng sâu nội tâm. Cái đẹp bền lâu chỉ khi được gột rửa qua khổ đau, và từ đáy sâu ấy con người tìm thấy năng lượng tiếp tục bước đi. “cứ khóc khi trái tim còn run/ trên gương mặt đời ngà ngọc” (nước mắt). Câu thơ hé mở chiều kích khác của sự tổn thương: đó không chỉ là vết cắt riêng tư mà còn nơi nhận thức giới hạn. Nhà thơ chấp nhận sự tổn thương như phần tất yếu của đời sống, nâng thành giá trị tinh thần, nối con người với niềm tin vào sự tái sinh và sức mạnh bền bỉ của cái đẹp.

“khúc lưu ly đêm này/ ai rủ rê đừng hát/ mưa giăng mùa đa đoan/ ta làm con chim cánh rã điêu tàn/ lòng không bay mà rỗng/ chỉ xin nàng đậu một cái cây trước hiên” (khúc lưu ly). Nhà thơ mở rộng cảm quan sang miền mộng tưởng và ước mong trú ngụ, gợi sự kiệt quệ, rã rời, hàm chứa ước muốn được neo đậu giữa bão giông tinh thần. Nỗi dày vò trở thành động lực hướng đến hình thức tồn tại giản dị mà bền vững. Thơ trở thành chỗ trú ngụ cho linh hồn, nơi hồi sinh niềm tin vào cái đẹp.

Nhà thơ Trang Thanh.

“ước một lần qua ngày rong rêu/ nụ hôn tắm nhành tóc bỏng/ dáng em sen vỡ hương còn trong/ mùa thu ấm mềm căn gác mỏng/ anh cầm chiều lâng lâng nhan sắc/ ôm em còn run run nghi hoặc” (bây giờ…). Mạch thơ hòa quyện tình yêu, thân thể với khát khao nương tựa. Độc giả bắt gặp một dạng năng lượng mong manh và bền bỉ, nơi những vết thương được phủ lên bởi hơi ấm tình thương, khiến nỗi đau không chỉ mang dáng dấp của mất mát mà mở ra cơ hội tái sinh. Hình ảnh thân thể gắn với thiên nhiên, tình yêu hòa với ký ức và thời gian, mở ra không gian giàu tính biểu tượng, nơi sự tổn thương được cất giấu nhưng cũng là nơi nuôi dưỡng vẻ đẹp. Đó là điểm gặp gỡ giữa khổ đau và khoái cảm, giữa rạn vỡ và niềm tin vào khả thể tái tạo. Từ đây, tiếng lòng vang ngân như nỗ lực cứu rỗi bản thân, đồng thời khẳng định: thơ ca có thể chữa lành những vết thương của đời sống, đưa con người vượt thoát nỗi niềm riêng để chạm tới giá trị nhân bản phổ quát.

Đến phần “tóc mình viết lên mây”, giọng thơ Trang Thanh phóng khoáng, siêu hình, đối thoại với quá khứ, hiện tại và tương lai, cất lên niềm tin rằng cái đẹp mãi trường tồn. “hứa rằng ai cũng nhẹ như hơi thở/ để chạy băng băng trên những con đường tóc rụng/ từ chính mái đầu nhỏ bé của nàng” (trên con đường tóc). Không gian tự do mở rộng: con người hóa giải mọi ràng buộc thân phận, hòa nhập vào vô tận. Tiếng thơ trở thành biểu tượng cho hoài bão vượt lên hữu hạn, chạm tới bầu trời của cái đẹp và tự do, khép lại hành trình thi ca bằng dư vang mong manh mà bền lâu. “tôi muốn hóa kiếp nỗi buồn thành hoa để nuôi nấng lũ sâu/ dẫu nhỏ như cái tăm sợi chỉ/ chỉ biết bò lung tung trên mặt đất này” (hóa kiếp). Khổ thơ mở ra không gian tưởng tượng nơi cảm xúc và tư tưởng được giải phóng, nỗi buồn hóa thành nguồn sống cho những sự vật tưởng như nhỏ bé, trở thành biểu tượng của sự chuyển hóa, biến nỗi đau khổ thành năng lượng sống, thành cái đẹp. Giọng thơ nhẹ nhàng, vươn tới, gần gũi đời thường, mở ra chiều kích siêu việt, tạo nhịp điệu mềm mại nhưng lan tỏa.

Từ gốc rễ đời sống, qua vùng thương tích tinh thần, rồi mở ra bầu trời siêu thoát, hành trình thơ Trang Thanh vận động theo ba chặng đường kế tiếp, liên kết nhau như vòng cung khép kín nhưng không dừng lại ở sự hoàn tất, mà luôn gợi mở những khả thể. Tiếng ngân trong tập thơ chính là kết tinh của quá trình dấn thân ấy. Trong sự vận động đó, lời ca của Trang Thanh không chỉ song hành với bi kịch và hi vọng, mà còn kiến tạo một mĩ học cân bằng giữa hữu hạn và vô hạn, giữa cái mong manh dễ vỡ của kiếp người và sức bền nội tại của tâm hồn. Chính vì vậy, giọng thơ chị vang vọng như những khúc ca về sự sống: đẹp và buồn, mong manh mà bền bỉ, luôn khẳng định khả năng hồi sinh.

Tập thơ không chỉ giàu giá trị tư tưởng, mà còn đạt tới chiều sâu nghệ thuật qua hệ thống ngôn ngữ giàu tính hình tượng và biểu tượng, cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa mạch nguồn truyền thống và những cách tân mang hơi thở hiện đại. Những hình ảnh như “tiếng đùa cợt rung thóc mùa ràn rạt”, “mọc dưới bùn tóc gội trăng lõa xõa”, hay “bầy cá trượt cơn mơ mẹ” gợi đời sống đồng ruộng quen thuộc, mở chiều sâu suy tưởng về kiếp người. Nghệ thuật tu từ trong tập thơ cho thấy sự kết hợp tinh tế giữa biểu tượng và lối nói dân gian mộc mạc, vận dụng linh hoạt các thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh… để nâng những sự vật đời thường thành hệ thống biểu tượng giàu sức gợi, sinh động và thấm đẫm ý nghĩa triết lí. Ngôn ngữ dân dã khi hòa quyện với giọng điệu thơ tự do, đôi khi nhuốm màu hiện sinh và triết luận, đã kiến tạo một phong vị gần gũi, mới mẻ. Không gian nghệ thuật được mở rộng: từ cảnh sắc làng quê cụ thể đến những miền giấc mơ, ảo ảnh và những suy tư về thân phận con người. Nhờ đó, người đọc có thể cảm nhận nhịp sống đời thường, biết lắng nghe tiếng vọng từ tầng sâu tâm hồn mình. Cấu trúc tập thơ được tổ chức uyển chuyển và mạch lạc, vận động từ nỗi buồn, kí ức đến ước vọng. Các mảng thơ liên kết chặt chẽ, tạo hành trình cảm xúc nhất quán, trong đó nỗi buồn, kí ức và hoài bão đan xen; mở ra không gian tưởng tượng rộng lớn, cho phép độc giả tự do đồng điệu và suy ngẫm.

Tập thơ “trên con đường tóc” là hành trình từ căn cốt đời sống cá nhân đến miền suy tưởng phổ quát, nơi kí ức và nỗi buồn được thăng hoa, tính phù du được nâng thành biểu tượng của sự sống và cái đẹp. Đây không chỉ là tiếng nói tự bạch của một nữ thi sĩ, mà còn là tiếng vọng cộng hưởng, góp thêm nhịp điệu riêng biệt vào dòng chảy thơ Việt Nam đương đại.

MAI VĂN PHẤN

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Những người tôi gặp, những chuyện tôi viết

Tôi từng hình dung viết văn là công việc của sự hư cấu, một hành trình phác dựng thế giới từ trí tưởng tượng, nơi nhà văn tự do tạo hình mọi thứ theo ý mình... (TRẦN THỊ TÚ NGỌC)

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)