. LÊ HỒ NAM
Có một điều mà hầu hết chúng ta đều đồng ý: con người là sinh vật kể chuyện. Từ thuở ban sơ, con người đã luôn bị thôi thúc bởi sự tò mò và ham muốn nhận thức, gọi tên, thấu hiểu những gì diễn ra xung quanh mình. Kí ức được hình thành từ những trải nghiệm nhận thức đó, kết tinh thành những câu chuyện mà ta kể về mình. Mỗi ngày trôi qua, mỗi buổi sáng thức giấc, những chuyện kể ấy cũng thức giấc cùng chúng ta, tò mò về những chương mới của nó thông qua hành trình sống cứ tiếp diễn của con người.
Song, đối với những người dân nơi hòn đảo ấy, hành trình của họ không diễn ra như thế. Mỗi ngày trôi qua, mỗi buổi sáng thức dậy, hệt trò chơi rút gỗ, những câu chuyện của họ không những không đầy hơn, mà còn bị khuyết đi từng phần. Họ không được quyền làm chủ kí ức, làm chủ những câu chuyện của mình, mà bị khuất phục bởi những kẻ quyền lực hơn, không thể thay đổi tình thế. Từng món vật, từng sự vật đã tan biến qua năm tháng, qua thế hệ, khiến cho nhân vật chính phải tự hỏi “thứ đầu tiên biến mất khỏi hòn đảo này là gì”. Câu hỏi đó đã dẫn người đọc vào trong thế giới đầy những mất mát của Yoko Ogawa, một nhà văn đương đại nổi tiếng người Nhật Bản.

Kết tinh thầm lặng của Yoko Ogawa (Uyên Thiểm dịch, Nxb Hà Nội, 2025) là một cuốn tiểu thuyết về tự sự và những nỗ lực bảo vệ tự sự của con người. Tên sách bản tiếng Anh, The Memory Police hay Cảnh sát kí ức, gợi cho độc giả về một thế giới phản địa đàng của Orwell hay Huxley, nhưng kì thực toàn bộ cuốn sách không chủ yếu nói đến thế giới kiểu đó. Trong cuốn tiểu thuyết này, thật khó để tìm một lời diễn giải chi tiết nào về cái hệ thống chi phối cuộc sống của người dân trên đảo, cũng không có những khoảnh khắc nổi loạn nào như nhân vật chính đứng lên phản kháng. Ngay cả cảnh sát kí ức - thế lực bí ẩn cai trị hòn đảo - cũng hiện lên một cách phi nguồn gốc, phi lịch sử: chúng chỉ xuất hiện khi quy định thứ gì đó sẽ phải biến mất hoặc khi đàn áp người dân, còn lại tồn tại như một thứ quyền lực phi lí mà không ai có thể cản lại. Tinh thần của Kết tinh thầm lặng gặp gỡ với Mãi đừng xa tôi của Kazuo Ishiguro nhiều hơn, khi miêu tả một thế giới đang đến gần bến bờ diệt vong như một cái cớ để đặt những câu hỏi mang tính hiện sinh. Những câu hỏi đó không cần một cốt truyện cao trào tương xứng, nhưng cần độ sâu lẫn những khoảng trống nhất định để nghĩ về nó.
Sự biến mất của các sự vật, đồ vật diễn ra trên hòn đảo tuy không theo trật tự nào, nhưng cũng phản ánh những tầng nhận thức và khả năng kể chuyện khác nhau trong con người. Đó là sự biến mất của chim, một loài sinh vật trong tự nhiên, phản ánh cách loài người tương tác với môi trường xung quanh. Một sự biến mất tiêu biểu khác là của những cánh hoa hồng, cũng là một loài thực vật trong tự nhiên, nhưng nó không phản ánh sự tương tác vật chất giữa con người với tự nhiên như chim mà phản ánh nhiều hơn về cảm nhận của con người trước thế giới: cảm nhận về cái đẹp - một cái đẹp thuần khiết, nguyên sơ, đầy trực cảm - đến mức người dân phải kêu lên “lần đầu tiên có một sự biến mất đẹp đẽ thế này”. Những sự biến mất khác thì phản ánh cách con người lao động để duy trì và định nghĩa sự sống của mình, như chiếc phà đã gắn bó với cuộc đời của ông già chồng bà vú - một nhân vật quan trọng trong tiểu thuyết. Những sự biến mất này đều dẫn đến sự suy giảm trong tâm trí người dân: họ dần không còn nhớ gì về những thứ đã bị cảnh sát kí ức tước mất cả. Dù cuộc sống tràn ngập bất an và trì trệ, họ buộc phải tìm những cách thích nghi mới, tìm những công việc mới để tiếp tục cái sự sống đầy lung lay của mình. Có những người không quên được thì sẽ bị cảnh sát kí ức truy đuổi và thủ tiêu, như mẹ của cô nhà văn, nhân vật chính của tác phẩm. Có những người lẩn trốn để tìm cách thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, nhưng cuối cùng cũng không thể thoát khỏi sự vây bắt của cảnh sát kí ức. Có những người chỉ có thể tiếp tục làm công việc của mình để duy trì cuộc sống như nhân vật chính của tác phẩm. Cô viết tiểu thuyết về những “sự mất mát nào đó”, một cách “bình dị và âm thầm”, dù cho không mấy ai cần đến tiểu thuyết ở một nơi như hòn đảo. Công việc viết văn cùng bản thảo của cô - thứ được tái hiện trực tiếp trong tiểu thuyết - là một mắt xích quan trọng trong những vấn đề mà Ogawa đặt ra trong tác phẩm của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà Ogawa lại để cho nhân vật chính là một tiểu thuyết gia. Câu chuyện mà cô nhà văn viết trong Kết tinh thầm lặng tạo nên một kết cấu truyện lồng truyện hiệu quả: tuy không mới nhưng lại phù hợp với định hướng của toàn bộ tiểu thuyết. Việc sáng tác truyện biểu trưng cho một tầng cao hơn của tự sự, khi con người dùng chính nhận thức của bản thân về thế giới bên ngoài để tạo nên những tự sự mới, vừa có những nét của hiện thực vừa vượt lên hiện thực, giúp soi chiếu vào chính thực tại mà ta đang sống. Bản thảo mà nhân vật chính đang viết là về một cô gái bị tước mất giọng nói đang chịu sự giam cầm trong một căn phòng kín ở tháp đồng hồ bởi một tên thầy giáo dạy đánh máy bí ẩn. Căn phòng nơi cô bị giam giữ có rất nhiều máy đánh chữ: cô nhận ra giọng nói của mình đang nằm trong một trong những chiếc máy đánh chữ đó, cho thấy rằng hắn cũng đã hành động tương tự với rất nhiều học viên của hắn trước đây. Cô rất muốn thoát ra, nhưng bị tước đi giọng nói, nên bất lực. Câu chuyện này, thú vị thay, lại có nhiều nét tương đồng với phong cách viết văn bình thường của Ogawa hơn chính Kết tinh thầm lặng, với bầu không khí tăm tối, tĩnh lặng, rùng rợn trong những gì tưởng chừng như bình thường nhất mà ta dễ dàng tìm thấy trong tập truyện ngắn Báo thù hay Hồ nước sâu thẳm. Câu chuyện, đặt trong sự soi chiếu với hiện thực trên đảo của người dân, có nhiều nét gần gũi và mang ý nghĩa phóng chiếu. Ngoài hiện thực, người dân trên đảo bị cai trị bởi cảnh sát kí ức, còn trong bản thảo, cô gái bị cầm tù bởi tên thầy giáo quái dị. Ngoài hiện thực, người dân trên hòn đảo bị tước đi kí ức khiến ý nghĩa sự sống lẫn ý chí phản kháng của họ càng mục ruỗng dần, còn trong bản thảo, cô gái, sau khi bị nhốt lâu ngày và lệ thuộc vào kẻ bắt cóc mình, cũng dần quen với cái cuộc sống bị cầm tù. Điều này có thể lí giải cho việc khi cô nghe thấy tiếng của những học viên khác bên ngoài - một cơ hội để được giải thoát - cô lại chẳng làm gì mà nghĩ rằng “có thể nếu tôi rời một bước khỏi nơi đây, thì cuối cùng cơ thể tôi sẽ nát vụn ra như cám”, “giờ đây, chỉ có anh - chỉ có những ngón tay của anh - mới duy trì được tôi”.
Có người so sánh bản thảo của nhân vật chính giống với câu chuyện ở chốn tận cùng thế giới (trong tác phẩm Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới) của Haruki Murakami, bởi sự tương đồng trong việc phân tách bản thể để kể một câu chuyện khác nhằm phản ánh trạng thái tồn tại của mình. Trong khi tác phẩm của Murakami dùng kết cấu truyện lồng truyện để mở rộng hơn chiều kích bản thể, thì bản thảo của nhân vật chính góp phần mở rộng hơn những vấn đề Ogawa đặt ra trong tiểu thuyết. Trong bản thảo, việc cô gái mất đi giọng nói đồng nghĩa với việc cô bị tước đi phương tiện truyền tải tự sự, cô không còn khả năng tự sự, mất đi sự tự chủ và quyền lực của chính bản thân, từ đó dần đánh mất sự tồn tại của chính mình, hệt như khi kí ức của người dân trên đảo đã bị lấy đi, họ cũng chỉ còn lại những bản thể mờ nhạt không tự sự, mất đi khả năng định nghĩa sự sống của chính họ. Giọng nói bị giam cầm trong những chiếc máy đánh chữ cũng là một ý tưởng độc đáo của Yoko Ogawa - một phương tiện biểu đạt tự sự lại bị cầm tù trong một phương tiện biểu đạt tự sự khác - biểu tỏ sự áp chế và câm lặng hóa tiếng nói con người. Tiếng nói khi đưa vào công cụ chuyển hóa thành văn bản nhưng không được truyền đi, như những trang bản thảo của cô nhà văn cũng chỉ là nỗ lực vô ích, vì tiểu thuyết trên hòn đảo đó cũng không còn.
Nhưng dù tập trung khắc họa không gian mang tính melancholy (u hoài) cũng như tình thế hiện sinh của con người, Kết tinh thầm lặng vẫn hướng là hành trình bảo vệ tự sự cùng những cố gắng đẩy lùi sự lãng quên. Từ những người không thoát được sự lãng quên như cô nhà văn hay ông già chồng bà vú đến những người không thể quên được như anh biên tập viên R hay mẹ cô nhà văn, dù yếu ớt, ai cũng đều cố gắng để bảo vệ những tự sự, kí ức trước khi chúng bị tước đoạt. Cô nhà văn bảo vệ anh biên tập viên R như cách cô bảo vệ chính mình, bởi anh là người duy nhất có thể hiểu và nhớ được những trang viết, những tự sự của cô, ngay khi tiểu thuyết đã biến mất. Ông già chồng bà vú luôn ngồi trước bến phà dù con phà đã biến mất như một cách hoài niệm về một cuộc sống giờ đây đã không còn. Cô nhà văn và anh R cùng tổ chức một buổi sinh nhật cho ông già chồng bà vú như một cách ghi nhớ sự tồn tại, tiếp thêm sức mạnh giữa con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Người mẹ, trước khi bị cảnh sát kí ức giải đi và giết chết, đã bí mật cất giấu những món vật bên trong các tác phẩm điêu khắc của bà, với niềm hi vọng sẽ giữ được chúng. Nhưng càng cố gắng giữ những gì còn lại, họ càng nhận ra sự bất lực của bản thân trước một sự thật rằng bản chất của những đồ vật biến mất không hề thay đổi, mà “thứ thay đổi là tâm trí của mọi người” - thứ tâm trí bị chi phối bởi quyền lực. Bản thân kí ức cũng chịu sự tác động của thời gian, nên việc nhớ lại những tự sự về chúng không phải dễ dàng hay nói đúng hơn là một việc không tưởng đối với những người dân trên hòn đảo. Họ nhọc nhằn nhớ lại từng mảnh kí ức như cố giành lại quyền chủ động cuối cùng cho cuộc sống của mình. Nhớ trở thành một hành động mang tính cách mạng, một sự nỗ lực để kháng cự vô minh. Đôi lúc sự nhớ cũng được đền đáp bởi một cái loé lên rất nhỏ, như hình ảnh chú chim dang rộng đôi cánh bỗng chốc hiện về trong đầu cô nhà văn, để rồi cũng biến mất trong một khoảnh khắc.
Song khác với những sự vật hay món vật như chim, hoa, chiếc phà, sự biến mất của tiểu thuyết tạo nên một bước ngoặt trong câu chuyện của Ogawa: tạo thành hai giai đoạn trước và sau khi tiểu thuyết biến mất. Sự khác biệt này nằm ở việc tiểu thuyết nói riêng hay sách văn học nói chung, dù được lưu trữ ở dạng vật chất hữu hình, ý nghĩa chúng mang đến lại nằm ở tinh thần - một thứ vô hình, luôn vận động và biến đổi trong hành trình nhận thức ở người đọc, cũng như phản ánh một tầng cao hơn trong việc kể chuyện của con người. Vì lẽ đó mà khi họ bắt đầu đốt hết các quyển sách, một cô gái đã dám nổi loạn hô to lên “không ai có thể xóa được kí ức về những câu chuyện” trong sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người. Điều này đã cho thấy, tự sự nuôi dưỡng tinh thần và tâm hồn của chúng ta, tự thân lưu giữ trong ta sức tác động của chúng, vượt lên trên hình thức vật chất bên ngoài. Tự sự cũng duy trì và bồi đắp ý chí của con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt, nói rằng chúng ta luôn muốn được chủ thể hoá chính mình dù bị đẩy vào đường cùng, như cô gái kia đã can đảm cãi lại số phận như thế nào, dù biết tỏng mình sẽ không thể thoát khỏi bàn tay của cảnh sát kí ức. Và những tự sự hay việc kể chuyện, bằng một cách nào đó, vẫn luôn âm ỉ bên trong con người, dù cho kí ức về ngôn ngữ có phai mờ hay những quyển sách đã bị đốt cháy. “Em phải tiếp tục viết tiểu thuyết. Như vậy thì sợi dây sẽ không bị tuột mất”, R đã nói như thế với cô nhà văn, và cô đã quyết định nắm giữ sợi dây tâm trí đang càng lúc càng suy giảm của mình. Cô vẫn bí mật tiếp tục câu chuyện của riêng mình dù ngôn ngữ đang dần rời bỏ cô, như cách cô cố gắng khôi phục lại tiếng nói đang bị nhốt trong máy đánh chữ của nhân vật mình. Những diễn biến cuối cùng trong bản thảo còn dang dở không có nhiều tiến triển, nhưng nó vẫn tiếp tục đóng vai trò phóng chiếu thực tại trên đảo mà cô nhà văn đang sống khi cô gái trong câu chuyện đang dần tiến đến sự biến mất cuối cùng: bị hút vào trong chiếc máy đánh chữ. “Giây phút cuối cùng” ấy đến với cô gái như chính sự biến mất của thân thể cô nhà văn cùng những người khác. Đó là một nỗi bi đát, song những nỗ lực của cô vẫn thật đáng khâm phục. Khoảnh khắc cô biến mất trong căn phòng kín và anh R - một người không bị ảnh hưởng bởi cảnh sát kí ức - bước lên bên ngoài đã tạo nên một kết thúc mở. Hành động đó của anh có thể cực kì nguy hiểm, nhưng điều đó cũng đánh dấu một hành trình mới, một sự tái sinh nào đó sẽ có thể diễn ra trên hòn đảo ấy, như ta vẫn luôn hi vọng.
Kết tinh thầm lặng, vì thế, là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc của Yoko Ogawa, nhất là khi đặt nó trong bối cảnh đương đại, nơi mà con người đang dần lãng quên, dần đánh mất quyền nắm giữ những tự sự của mình vào tay người khác. Không gian lưu trữ hình ảnh, video hay chính là những kí ức, kỉ niệm của chúng ta bị biến thành những gói dịch vụ mà nếu ta không liên tục đăng kí, có thể mất đi tất cả. Con người hiện đại chúng ta, thực chất, không xa lạ với trạng thái tồn tại của những người dân trên hòn đảo đó. Làm người bây giờ chẳng còn là tự do, mà càng lúc càng bị giới hạn, bị chi phối bởi những quyền lực không thể thấy, bởi hệ thống xã hội còn tồn đọng nhiều bất ổn.
Nhưng bằng một cách nào đó, khi bị đẩy đến tận cùng, con người vẫn tìm được một lối ra, dù nó không đủ sức để lay chuyển được điều gì. Những trang bản thảo cuối cùng của cô nhà văn đã kết thúc dang dở, nhưng là minh chứng cho nỗ lực lẫn sự bướng bỉnh của cô trong việc giành quyền làm người. Cô vẫn viết, dù “chữ nào chữ nấy đều như đang khóc”, dù sắp tới là thời khắc huỷ diệt. Hãy viết, hãy sống, hãy tiếp tục kể những câu chuyện của chính mình, dù là diệt vong, dù là dang dở
L.H.N
VNQD