Đọc Bác để học Bác

Thứ Bảy, 09/08/2025 00:12

. LÊ PHONG
 

Cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang phát triển mạnh mẽ, cả về bề rộng và chiều sâu. Trong nhiều cách thức để học Bác, có lẽ, đọc trước tác của Người là một trong những cách có ý nghĩa sâu sắc, hiệu quả và bền vững nhất.

Đọc Bác chính là học Bác. Trước tác của Người đồ sộ, với nhiều thể loại (chính luận, văn học nghệ thuật, báo chí, thư từ, hành chính công vụ…) và cả những lời dạy, lời khen ngợi, chúc mừng, thăm hỏi đối với các cá nhân, tập thể… đã mở ra thế giới của một con người vĩ đại, mà ở đó, người đọc có thể học được rất nhiều để trưởng thành hơn.

Ngay từ ấu thơ, cắp sách đến trường, một em bé Việt Nam đã đọc thuộc Năm điều Bác Hồ dạy: Yêu Tổ quốc - Yêu đồng bào/ Học tập tốt - Lao động tốt/ Đoàn kết tốt - Kỉ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn - Thật thà - Dũng cảm. Có thể nói, những điều dạy bảo của Bác đã khắc sâu vào tâm trí của biết bao thế hệ người Việt Nam từ khi cắp sách đến trường. Đó là bài học khai tâm - vỡ lòng, vừa cô đọng, sâu sắc, vừa rất dễ nhớ, dễ thuộc, sẽ đi theo suốt đời con người. Rồi cứ thế lớn lên, đứa trẻ ấy sẽ biết sức mạnh của sự đoàn kết qua bài Hòn đá to: Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Chỉ một người/ Nhấc không đặng/…/ Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Nhiều người nhấc/ Nhấc lên đặng... Những hình ảnh trực quan, cách nói giản dị, dễ hiểu, gần với những ví von của đồng dao dân gian đã phát huy khả năng truyền tải thông điệp đến người đọc, người nghe, đặc biệt là tâm hồn trẻ thơ, mà rộng hơn là sự chất phác, thuần hậu của quần chúng nhân dân lao động.

Ngày tháng cứ trôi, những trang sách giáo khoa đồng hành với bạn nhỏ lớn lên, nơi ấy có những tác phẩm văn học, chính luận, báo chí của Bác Hồ. Từ những truyện ngắn như Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu… hay những tác phẩm chính luận xuất sắc như Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến…, người đọc học được ở Bác cốt cách của một trí thức yêu nước, đầy nhiệt huyết; một người dẫn đường, một lãnh tụ vĩ đại, đã tận dụng mọi khả năng có thể của việc viết nhằm tuyên truyền, cổ vũ, động viên, khích lệ đồng bào yêu nước hay vạch trần sự đểu giả, độc ác, tham lam, phi nhân của các thế lực thực dân xâm lược.

Qua những truyện ngắn hài hước, dí dỏm mà sâu cay, người đọc có thể thấy sự tài hoa, thông minh và sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc. Chẳng hạn, truyện ngắn Vi hành, được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo của Pháp (L’Humanité, ngày 19/2/1923) thực sự là một tác phẩm độc đáo về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Người viết – Nguyễn Ái Quốc – không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng, một trí thức ngang tầm/ trên tầm, sống trong môi trường văn hóa phương Tây lúc ấy (phải đối diện với cộng đồng đọc – cộng đồng văn hóa, tri thức bậc cao), mà còn là một người Việt Nam – phương Đông yêu nước, một nghệ sĩ – nhà văn thực thụ. Với lối viết linh hoạt, giọng điệu giễu nhại mỉa mai, tình huống nhầm lẫn độc đáo (tác giả để cho đôi nam nữ người Pháp – có tính biểu tượng, nhầm lẫn khách đi tàu – người phương Đông với hoàng đế Khải Định), đặc biệt là hình thức trích “Những bức thư gửi cô em họ” do tác giả dịch từ tiếng An Nam, câu chuyện được khéo léo gợi ra vừa thú vị, vừa mỉa mai mà lại rất tự nhiên, sâu sắc… Vi hành trở thành một tác phẩm có tầm vóc, đi thẳng vào trung tâm đời sống chính trị – văn hóa – nghệ thuật – trí thức châu Âu thời bấy giờ.

Tương tự, truyện ngắn Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, đăng trên tờ Le Paria, số 36 – 37, tháng 9 – 10/1925, tiếp tục là một chứng lí điển hình cho nghệ thuật viết văn hướng đến mục đích phê phán và đả kích những tên thực dân xảo trá, đồng thời ca ngợi những nhân sĩ trí thức yêu nước như Phan Bội Châu. Với văn phong sắc sảo, đan cài giọng điệu châm biếm hài hước sâu sắc và giọng điệu tôn kính (khi viết về Varen thì mai mỉa khinh bỉ, khi viết về Phan Bội Châu thì tỏ rõ sự ngưỡng mộ), lối lập luận bén nhạy và ngôn ngữ giàu tính trào lộng, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu đã phơi trần bộ mặt xảo quyệt, gian trá của Varen – vốn là đảng viên Đảng Xã hội Pháp và nay sắp sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Bên cạnh đó, như một sự đối sánh đầy sắc bén, hình tượng Phan Bội Châu hiện lên ngạo nghễ, đường hoàng trước kẻ thù xâm lược mà đại diện là tên Toàn quyền Varen.

Qua những áng văn chính luận, người đọc có thể thấy được vẻ đẹp của trí tuệ vĩ đại, tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc mà Bác luôn luôn nung nấu. Học Bác, một phần trong những điều lớn lao ấy cũng là cách để ta thêm yêu nước mình, yêu độc lập – tự do – hạnh phúc mà các thế hệ đi trước đã dày công vun đắp. Học Bác, cũng là học sự bình tĩnh, thông minh, sắc sảo mà vẫn rất điềm đạm. Khí chất thông tuệ của Người là sự hòa quyện của minh triết phương Đông và tinh thần triết học phương Tây, tỏa ra một cách mạnh mẽ trong sự giản dị đáng kinh ngạc. Có thể dẫn ra đây áng văn chính luận hùng hồn Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Đây là áng văn sánh ngang với những thiên cổ hùng văn trong lịch sử dân tộc như Nam quốc sơn hà (tương truyền của Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Hịch xuất quân (Quang Trung)… Không những thế, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh còn tỏa ra ánh sáng trí tuệ của một trí thức, nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, một lãnh tụ vĩ đại bởi nghệ thuật viết chính luận sắc bén, chặt chẽ, hiện đại, mang tầm quốc tế. Viết chính luận như Bác, quả là một thực hành mẫu mực để bất kì ai có thể lấy làm bài học cho mình.

Đọc Bác để học Bác, cũng là để thấm thía một tâm hồn chiến sĩ – nghệ sĩ hòa quyện một cách sâu sắc. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, người ta dễ chán nản buông xuôi. Thế mà, Hồ Chí Minh, trong những ngày tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm, bị trói chân tay, giải tới giải lui hơn 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Người vẫn làm thơ. Nhật kí trong tù ngoài giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật to lớn, còn là một bài học thấm thía về cách vượt qua khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Giới trẻ hay bất kì ai khi đọc Nhật kí trong tù đều có thể được tiếp nạp thêm năng lượng tích cực, lạc quan để hướng về “sự sống, ánh sáng và tương lai” để hướng về “sự sống, ánh sáng và tương lai”: Gà gáy một lần đêm chửa tan/ Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn/ Người đi cất bước trên đường thẳm/ Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn// Phương đông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn quét sạch không/ Hơi ấm bao la trùm vũ trụ/ Người đi thi hứng bỗng thêm nồng (Giải đi sớm – Nam Trân dịch); Trong tù không rượu cũng không hoa/ Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ/ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ/ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ (Ngắm trăng – Nam Trân dịch).

Có thể nói, với những bài thơ này, Hồ Chí Minh đã đem đến giữa nhân gian một thái độ, một ứng xử vượt lên trên hoàn cảnh tù đày khổ ải, để sống, để hoạt động cách mạng và đợi chờ ngày toàn thắng huy hoàng: Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông/ Sống ở trên đời, người cũng vậy/ Gian nan rèn luyện mới thành công (Nghe tiếng giã gạo, Văn Phụng dịch); Sự vật vần xoay đà định sẵn/ Hết mưa là nắng hửng lên thôi/ Đất trời một thoáng thu màn ướt/ Sông núi muôn trùng trải gấm phơi/ Trời ấm, hoa cười chào gió nhẹ/ Cây cao, chim hót rộn cành tươi/ Người cùng vạn vật đều phơi phới/ Hết khổ là vui vốn lẽ đời (Trời hửng, Nam Trân dịch).

Không chỉ vượt qua, mà còn vượt qua với tinh thần thi sĩ – chiến sĩ, lãng mạn cách mạng, kiên cường bất khuất, đó là hình mẫu cho nghệ sĩ trong thời đại Hồ Chí Minh.

Những năm tháng chiến tranh ác liệt, khi hai miền Nam – Bắc còn cách chia, mỗi độ Tết đến xuân về, Bác đều có thơ chúc Tết. Thơ chúc Tết của Người là một dẫn chứng rất sinh động cho tâm hồn thi sĩ, vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, chia cách, để yêu thương và hi vọng. Học Bác, là học ở tinh thần ấy, khát vọng ấy. Trong những vần thơ chúc Tết của Bác, người đọc sẽ tìm thấy niềm lạc quan tin tưởng, ý chí cách mạng ngời sáng và lí tưởng nhân văn hướng về ngày thống nhất toàn vẹn: Xuân về xin có một bài ca/ Gửi chúc đồng bào cả nước ta/ Chống Mĩ hai miền đều đánh giỏi/ Tin mừng thắng trận nở như hoa (Xuân Đinh Mùi); Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mĩ/ Tiến lên/ Toàn thắng ắt về ta! (Mừng xuân 1968).

Đọc Bác là học Bác. Học Bác là học từ cái nhỏ đến cái lớn, từ cái giản dị đơn sơ hàng ngày đến những điều lớn lao, cao cả. Ví như, khi viết, Người luôn nêu ra cho mình câu hỏi: Viết cái gì? Viết cho ai? Viết như thế nào? Từ những trang viết của Bác, người đọc sẽ thấy được yêu cầu thiết thực của việc viết. Qua viết, từ viết, phản ánh lối sống, quan điểm, cách nhìn, và sâu xa là tư tưởng, nhân sinh quan, thế giới quan mà Người luôn kiên định. Những khi đọc thơ, truyện hay tác phẩm chính luận của Bác, bên cạnh các vấn đề thuộc về nội dung, nghệ thuật, chắc chắn người đọc sẽ học được ở đó thái độ minh bạch, tinh thần yêu ghét rạch ròi. Đặc biệt, sau tất cả, từ những trước tác của Người, tỏa ra tinh thần nhân văn cao cả, sâu xa, mà bất kì ai đều có thể tiếp thu, tích lũy cho mình trong một thế giới hội nhập với tinh thần bè bạn hữu nghị, nhưng cũng không ít nguy cơ tiềm ẩn. Không những thế, chỉ nhìn vào cách mà Người viết, đó cũng là bài học lớn cho những ai muốn kiếm tìm một sự minh triết trong biểu đạt. Người viết giản dị, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, trực quan, hình tượng và sinh động. Đâu cứ phải cầu kì, cao siêu mới là viết? Đâu cứ phải xa lạ mới là mới? Những trang viết của Bác ấm áp tỏa giữa đời như một niềm yêu thương mà thấm thía: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr. 161–162). Có cần cao siêu, phức tạp, xa lạ gì đâu. Ham muốn ấy, khát vọng ấy, cũng là lí tưởng cao cả của một đời hiến dâng trọn vẹn.

Trong nhiều trước tác của Bác, Di chúc có lẽ là văn bản đặc biệt nhất. Bản Di chúc được viết tay, chỉnh sửa trong nhiều năm (1965–1969), thể hiện những cân nhắc kĩ lưỡng, thận trọng; những suy tư vô cùng sâu sắc; tấm lòng bao dung lo lắng cho dân, cho nước, cho Đảng, cho tình hình cách mạng thế giới, cho đoàn viên thanh niên… cũng như những dặn dò riêng tư sau khi Người qua đời. Từ bản Di chúc – Bảo vật quốc gia, rất nhiều bài học được gợi lên. Đó là bài học về tình yêu thương dành cho dân, cho nước, mà rộng hơn là cho nhân loại. Đó là bài học về lí tưởng cách mạng, về những đau đáu khôn nguôi cho vận mệnh dân tộc, cách mạng và phong trào cộng sản quốc tế. Đó còn là những lời dặn dò quý báu về phẩm chất của Đảng, đường hướng xây dựng Đảng, nhiệm vụ cao cả của Đảng… Bên cạnh đó, từ tâm thế viết, thời gian viết, sửa chữa, cân nhắc câu từ chữ nghĩa, cho đến văn phong trong Di chúc… cũng là bài học lớn cho người cầm bút. Có thể nói, Di chúc là một viên ngọc, tỏa sáng “tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Học Bác, không nên là nhiệm vụ. Học Bác cần phải xem như một thói quen để rèn giũa chính mình, nhằm hình thành những đức tính tốt. Trong không gian văn hóa đương đại, giữa rất nhiều lựa chọn, giữa muôn vàn những thứ sinh động hấp dẫn lôi cuốn con người – đôi khi sa vào mê lộ của sự tầm thường dễ dãi hay sự trống rỗng vô nghĩa, ta cần bình thản hơn để đọc, để học từ những trước tác của Bác Hồ. Đó là cách để chúng ta có thể thấm thía một minh triết sống giữa cuộc đời vạn biến.

L.P

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)

Truy tìm Nadja

Truy tìm Nadja

Là tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của André Breton, suốt nhiều thập kỉ, danh tính của nàng Nadja - người cũng được chọn là tựa đề sách - vô cùng bí ẩn.

‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

‘Mấy đứa nhỏ diễn sao giống tụi mình ngày đó quá trời’

Tại Củ Chi có một suất chiếu đặc biệt của bộ phim “Địa đạo- Mặt trời trong bóng tối” được gọi là suất chiếu tri ân.