. NÔNG THỊ NGỌC HIÊN
Truyền thống và hiện đại là hai mặt luôn hiện diện trong đời sống của mỗi quốc gia, dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển. Trong đó, bao gồm cả lĩnh vực văn hóa - vốn được xem là nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy là hai mặt khác nhau, nhưng truyền thống và hiện đại không tồn tại một cách tĩnh tại, độc lập mà luôn có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, có sự vận động, phát triển và dẫn đến sự hình thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Trong phạm vi nhỏ hơn, xung đột giữa truyền thống và hiện đại ở một vùng miền, một dân tộc cũng tác động đến cách ứng xử của con người trước những thay đổi của cuộc sống, từ đó làm biến đổi đến văn hóa, xã hội của vùng miền ấy. Và vùng đất miền cao của dân tộc Tày cũng không là ngoại lệ.

Dân tộc Tày là dân tộc thiểu số, có lượng dân cư đứng thứ hai sau dân tộc Kinh trong số 54 dân tộc của đất nước Việt Nam. Đây cũng là dân tộc với những bản sắc được hình thành rất lâu trong lịch sử, giàu truyền thống nghệ thuật, văn hóa, văn học… Những truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc đó luôn là niềm tự hào to lớn cho mỗi người con của dân tộc. Nhà văn, nhà thơ Y Phương cũng mang trong mình niềm tâm huyết, tự hào thiết tha như thế. Vậy nên, khi chứng kiến xã hội ngày càng phát triển, hiện đại, những giá trị vốn đã gắn với những nét đẹp dân tộc dường như ngày càng bị mai một, biến mất dần, ông không khỏi cảm thấy lo lắng, băn khoăn với khát vọng bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Là người con Tày chuyển từ quê hương ra thành phố sinh sống và công tác, dẫu cuộc sống với điều kiện đủ đầy trong sinh hoạt, học tập cũng như công việc, trong lòng Y Phương không nguôi những kỉ niệm về quê hương. Cứ mỗi khi tách khỏi guồng quay gấp gáp, xô bồ của đời sống thủ đô, nhà thơ đều dành thời gian để tĩnh lại, tưởng nhớ về những kỉ niệm với quê hương, những kí ức thơ trẻ. Trong tản văn Thơ gửi bạn chăn trâu, chúng ta thấy dường như tuổi thơ luôn là quãng thời gian tươi đẹp nhất. Tác giả nhớ về tuổi thơ chăn trâu với đám bạn, những cậu bé nghịch ngợm hồn nhiên: “Ôi, tôi nhớ cái ngày xưa thời chúng mình, sao mà đẹp lung linh, hồn nhiên thế. Trời ơi là trời. Đến trâu bò cũng biết ngoan ngoãn, nghe lời người lớn.” Gắn với tuổi thơ là làng quê của tác giả, với người dân luôn có tính cách hiền lành, nhường nhịn, cho nên đến cả con trâu của làng cũng lành hiền, cả cánh đồng làng cũng có tên tổng “Nhượng Bạn”, hay “Nà Slâm” - đám ruộng có trái tim. Chứng kiến cuộc sống của con trẻ nơi thành thị, dẫu ăn ngon mặc đẹp, có các khu vui chơi giải trí, nhưng nhà văn vẫn cảm thấy buồn lòng, vì các cháu không được gắn bó với làng quê dân dã, với những con vật nhà nông, với những trò chơi bình dị dân gian: “Chúng nó được sinh ra và lớn lên trong lòng thành thị. Nên bọn trẻ chả bao giờ có cái thú được chăn trâu cắt cỏ, được đốt lửa trên đồng. Chả bao giờ được chơi trò đánh trận giả. Chơi cướp cờ. Chơi khênh quan lớn về làng…” Con cháu thành thị cũng thiệt thòi khi không có cái thú dziều mằn - cái thú vui, sở thích của bất cứ ai là người dân tộc Tày khi ở lứa tuổi thiếu niên. Từ dziều mằn là cách dùng chữ người Tày, khó dịch ra tiếng Kinh, nó được miêu tả “...giống như hỏa lò nướng khoai. Nó được làm bằng những hòn đất thó khô cong. Xếp chúng vào làm thành hình một chiếc nón. Chiếc nón úp xuống đất. Xếp xong rồi thì ta lấy củi vào đun. Đun đến khi hòn đất chín nục như than hồng. Ta nhanh chóng tuồn khoai lang vào trong. Ta lấy que khều nó xuống. Ta đập cho nó tơi ra. Hơi nóng sẽ lan truyền qua lần vỏ, đến từng ngõ ngách tâm hồn củ khoai…” Tác giả nhớ mùi hương hấp dẫn của khoai lang dziều mằn “Khi mặt trời tụt dốc, cũng là lúc khoai lang bắt đầu lên mùi mía lùi. Mùi khoai nướng đánh thức các cơ quan khứu giác, vị giác, đồng loạt lốm ngốm đòi ăn. Trời ơi! Nhai cái thứ này ngọt từ kẽ răng ngọt xuống đến gót chân. Thơm từ vải áo chàm đến chiếc móng tay”, thì lại càng nhớ tiếc khi ở thành phố, mỗi lần có người quen từ quê lên thăm biếu bao tải khoai, nhìn chúng mà thấu thêm nỗi lòng mình: “Tôi bỏ khoai la liệt trên nền hoa lạnh toát. Tôi biết chúng đang nhớ đất, nhớ làng. Lòng dạ tôi bứt rứt không yên.” Nhà văn còn nhớ cả lối sống khiêm nhường, hiền lành của làng quê, cảm thấy buồn vì phần lớn ở thành phố, người ta không có thói quen nhường nhịn nhau: “Ở thành phố lâu ngày, tôi mới ngộ ra. Hầu hết mọi người đều xem cái sự nhường nhịn là dại dột. Nhường nhịn là đức hi sinh mù quáng.”
Sống giữa Hà Nội - một rừng người, một cánh rừng rộng lớn với đầy đủ loại người, trong đó có những người mà nhà thơ cảm thấy hâm mộ, trân quý nhất. Họ là những nhà khoa học ưu tú, những nghệ sĩ lừng danh, những trí thức lớn, tài năng tri thức của họ như dòng thác bạc, còn tác giả khiêm nhường chỉ nhận mình là “chiếc lọ mực Cửu Long bé xíu” vẫn cố gắng “...đưa hai tay ra hứng. Hứng bao nhiêu ra bấy nhiêu. May mà ướt tí chút. Thế là may rồi.” Vậy nhưng, ngoài những tri thức được tiếp cận, tác giả cảm thấy Hà Nội như một rừng buồn, người sát cánh, chen vai nhau mà không bao giờ hỏi han, khi ra đường ai ai cũng ngậm miệng, người người bịt mặt. Vì thế, nhà thơ không lúc nào nguôi nỗi nhớ quê nhà, và người con dân tộc này dù “nhúng xuống thành phố mà vẫn xanh một màu rừng” (Nhúng xuống thành phố).
Một trong những lí do mời gọi những vị khách ghé thăm mảnh đất đẹp tươi Cao Bằng qua những bài thơ, bài hát vùng quê là những điệu hát woàng dzà, hát then, hát lượn, hát slí hay hát dzá hai. Điệu hát làm cho hoàng tử con vua cởi áo bào xin làm rể Co Xàu. Điệu hát ngọt ngào cho những cô gái chàng trai mới lớn tâm tình, kết nối tình yêu, điệu hát khiến những vị khách gần xa thêm yêu quý con người, mảnh đất quê hương, nối kết tình người. Tự hào về nghệ thuật dân tộc Tày bao nhiêu, thì giờ đây nhà thơ lại buồn lòng bấy nhiêu khi những làn điệu dân tộc đó đang dần mai một: “Còn bây giờ, trong đám thanh niên làng tôi bói không ra một người biết hát lượn. Chúng chỉ quan tâm ăn ngon, mặc diện và rong chơi” (Bản nhạc mùa thu). Ngay cả trang phục truyền thống của dân tộc cũng ít thấy xuất hiện trong nếp sống hiện đại bây giờ. Nhà thơ nhớ cảnh những cô, những bà, những chị tung bay với sắc chàm trong sinh hoạt, trong lễ tết, hội hè, cưới xin. Mặc áo truyền thống dân tộc trong những ngày trọng đại là một niềm tự hào chính đáng, nó giống việc người phụ nữ Kinh mặc lên mình chiếc áo dài truyền thống. Tác giả cho rằng: “Những người phụ nữ Tày mặc áo Tày, họ không chỉ đẹp một cách dung dị, chân phương mà còn thiêng liêng cao quý. Thiêng liêng vì là sản phẩm của cha ông người Tày để lại. Cao quý vì là sản phẩm mình tự tay trồng bông dệt vải. Tự tay nhuộm chàm và tự tay khâu cắt lấy” (Áo tân thời bước vào cửa vóng). Trang phục áo truyền thống bằng vải chàm mất dần, những đồ dùng bằng vải chàm cũng vậy, nên nghề trồng chàm làm vải đang phôi pha dần. Y Phương càng tiếc nuối, xót xa: “Dù cả đời lặng im, giếng chàm thăm thẳm, hun hút, mà hiểu lòng con người. Chả hiểu vì sao ngày nay, người làng tôi ít khi sửa sang chỉnh trang lại giếng chàm. Để cây cỏ hoang dại mọc tùm lum. Kể từ khi có vải mậu dịch bày bán, không còn ai trồng bông dệt vải… Bây giờ không còn làm vải, trồng chàm để làm gì! Trông kìa, ở đáy giếng, nước đọng đỏ hoe như khóc. Giếng chàm ơi!” (Giếng chàm xanh như ngọc). Ngay cả giếng chàm cũng hoài niệm về thời kì hoàng kim của mình, cũng như khóc than bởi cảnh xưa đã đi qua, còn con người thì sao? Cũng nên biết trân trọng những giá trị tốt đẹp của dân tộc, tiếc nuối, xót xa những nét văn hóa dân tộc chứ? Áo chàm mai một rồi, nghề làm chàm cũng mất đi. Buồn lòng thay...
Hình ảnh con đường, lũy tre là hình ảnh quen thuộc của thôn quê, làng cảnh Việt Nam. Nhưng làng quê người Tày lại đặc trưng nhất bởi con đường mấp mô, trập trùng hai bên là những mỏm đá, những dãy núi, những quả đồi lô nhô. Trên con đường ấy không đếm xuể bao nhiêu lần Y Phương về quê rồi lại ra thành phố. Mỗi lần về quê với ông là cả niềm vui nỗi buồn lẫn lộn. Mỗi lần về quê là mỗi lần thấy quê hương thay da đổi thịt: “Lần nào về cũng thấy nó khác trước. Khác từ con đường tới con người. Khác từ cây lúa cây ngô đến con tôm con tép. Con suối, ngọn núi, chân rừng cũng đã khác xưa.” Con đường ngày xưa “...người đi vừa bàn chân. Phía trước mặt có vài con trâu bò. Phía sau lưng có vài con dê ngựa. Con đường rầm rì biết bao nhiêu chuyện kể… Con đường với người miền núi là người bạn tâm tình.” Còn đồng làng bây giờ ít thấy bóng dáng trâu bò, những con đường thì được tráng nhựa “...nhẵn nhụi, không một hòn đá lẻ. Trên mình nó xám mốc như da trâu.” Cùng với những tiến bộ của giao thông, việc đi lại của con người trở nên thuận tiện, thì lối sống con người cũng có nhiều biến đổi nhưng không hoàn toàn là theo nghĩa tích cực. Người dân với trang phục “...khoác lên mình những bộ quần áo may sẵn, nhiều kiểu dáng, hợp thời trang. Xanh, đỏ, tím, vàng. Còn màu chàm ngày xưa không thấy đâu. Cái màu chàm thơm ngây ngất. Thơm rất lâu. Xanh rất bền. Màu và mùi chàm bám lên da thịt người. Phủ lên người một lớp sinh đẻ” (Về quê nghe người nói).
Tác giả trăn trở trước đổi thay của cuộc sống quê hương. Ngày nay người ta không dùng lá toong rản để gói hàng đi chợ nữa, thay vào đó là những túi ni-lon đủ màu. Những túi xanh đỏ tím vàng đó ngỡ là văn minh lịch sự nhưng lại không thể tiêu hủy, gây ô nhiễm cho môi trường, độc hại cho sức khỏe người dân. Nhà văn buồn khi thấy, những cử chỉ nhỏ nhoi, giản dị của người dân là việc ngày xưa, trước khi bước chân vào nhà, ai cũng tháo giày để dưới chân cầu thang, rồi dùng gáo tre múc nước rửa sạch chân trong cái ang đựng nước ở hông nhà, thì ngày nay ai cũng vô ý để cả giày dép lên cầu thang, ván sàn. Buồn khi trước đây con người sống theo khuôn phép, có lễ nghĩa: trẻ con nể người lớn, người lớn nể người già, người già nể tổ tiên, vào những ngày lễ Tết gia chủ phải tắm rửa sạch sẽ thơm tho, mặc áo the khăn xếp mới được thắp hương cúng lễ…, còn giờ đây nhiều người ăn xỏ nói xiên, thấy ai hơn người chút là buông lời nói mát, mặc dù là người có chức vụ cao tới đâu đứng trước hồn cốt quê hương luôn thấy mình nhỏ bé như hạt tấm vậy…
Trong tản văn Đi chợ nhìn người, ở vùng núi, vào chợ phiên, đặc biệt là phiên chợ ba mươi Tết, dù có bận bịu đến đâu người dân cũng đi chợ. Đi chợ không phải chỉ để mua sắm, chuẩn bị những đồ dùng cuối cùng cho Tết Nguyên đán mà cái quan trọng là để “hỉn chơi nhìn người” bởi người dân nơi đây coi trọng cái tình, coi trọng con người. Họ đi chợ để ngắm ai ai diện áo mới, khăn mũ mới, giày dép mới. Một số chị em mặc áo chàm, đeo vòng bạc, dây xà tích, túi đựng trầu bằng thổ cẩm. Rồi khung chợ Co Xàu không tiếng còi, tiếng động cơ xe máy, chỉ có tiếng người và tiếng com rượu chạm nhau lum cum, lủm củm, con người nói với nhau đôi lời, uống dăm chén rượu, hút vài điếu thuốc. Thế mà bây giờ khi trở lại, khung cảnh xưa không còn. “Hôm nay tôi trở về Co Xàu, lòng đi thật chậm. Thật chậm. Bước qua hàng hàn nồi vá chảo. Nhưng không còn dấu vết của chú Thòong với câu nói cửa miệng: Có phải không nào… Đi thật chậm qua nơi đóng móng ngựa. Những con ngựa giờ đây đã biến thành cao… Tôi cứ buồn. Cái nhớ bốc ra như hơi nóng. Hơi nóng có mùi tanh cao ngựa. Mùi tanh bốc lên từ góc chợ ngày xưa ấy. Sự cô đơn trong tôi bò từ chỏm xương cụt, lên đến huyệt đỉnh đầu.” Bước chân đi thật chậm, thật chậm của tác giả như hồi tưởng lại cảnh cũ, như nhớ tiếc những kỉ niệm đã qua…
Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc đến nay vẫn còn lưu giữ được, nhưng theo dòng biến thiên của thời gian, nó cũng thay đổi ít nhiều. Trong lễ tảo mộ, khi cuộc sống hiện đại, no đủ hơn, mâm cỗ cúng tổ tiên không thiếu đồ ngon, vật lạ hiếm quý nhưng đáng trân trọng nhất vẫn là tấm lòng con cháu đối với người đã khuất. Những người làm cha, làm mẹ sẽ vui lòng hơn khi thấy con cháu xa quê tụ tập đông đủ trong ngày lễ trọng. Ở tản văn Dzương eng, tục thăm gái đẻ, nhà văn miêu tả dzương eng cũng có những biến đổi, mang sắc màu mới. Cảnh các bà, các cô mặc áo chàm đi thành đoàn đến thăm gái mới đẻ ngày xưa, thì nay vẫn là cảnh nô nức đó, nhưng phương tiện là xe máy, ô tô sang trọng, kém thân tình. Quà cáp không phải là gà thiến, gạo nếp mà là phong bì, thuốc lá ngoại, rượu Tây. Nhìn những quà cáp sang quý đó, nhà văn như thấu hiểu được nỗi lòng của người nhà gái đẻ: “Tôi đọc được tiếng lòng của họ. Thấy nỗi buồn ngấm qua da thịt. Buồn đưa lên ánh mắt như người lạc loài.” Buồn nhất là khi, cuộc sống ngày càng khấm khá hơn nhưng tình người thưa thớt đi, cùng ngồi cạnh nhau trong mâm cơm ấm cúng nhưng người ta chỉ ăn lấy lệ, chê cơm nấu khô, chê miếng thịt thái dày: “Người bây giờ chê miếng xithang thái dầy lắm mỡ. Miếng nào cũng nặng bằng tay người thợ mộc. Người bây giờ chê cơm nấu khô, nhai như giẻ rách… Họ chỉ dùng đũa khẽ gẩy vài cọng rau thơm, nhai nhóp nhép một hồi lấy lệ lòng người nhà.”
Chứng kiến sự biến thiên của thời gian, của đời sống con người, nhà văn lại hồi tưởng về quá khứ với những kỉ niệm, giá trị nhân văn cao đẹp, càng thêm băn khoăn, lo lắng về hiện tại phát triển ở bề mặt nhưng bề sâu lại chứa đựng những tiêu cực, đen tối. Ông nhớ về cảnh làng quê ngày trước, dù cuộc sống còn nghèo khổ, cơ cực nhưng thanh lành, yên bình, êm ả. Trong tản văn Núi non chất ngất, ông viết: “Đêm đầu tiên ngủ tại nhà mình. Lưng đặt lên tiếng mọt… Đêm đầu tiên ngủ tại nhà mình. Lưng đặt lên tiếng chuột… Đêm đầu tiên ngủ tại nhà mình. Lưng đặt trên tiếng nhệu nhạo kít két. Một cụ trâu bền bỉ nhai rơm… Đêm đầu tiên ngủ tại nhà mình. Mùi phân. Mùi nước đái. Mùi những con giun chăm chỉ lặn vào đống mùn.” Ông nhớ mỗi lần về quê, gắn bó với mùi hương nghèo khó nhưng gần gũi quen thuộc lại ấm áp yêu thương, với những mùi hương thân thuộc của thiên nhiên làng quê, của rơm rạ, mùi đất, mùi côn trùng, mùi thơm của tấm chăn chàm. Để rồi giật mình nhìn vào thực tại, no đủ thì có no đủ hơn thật đấy, nhưng băn khoăn thì có thừa: “Người làng Nhòm Nhèm của tôi, hầu như ai cũng sắm xe máy, điện thoại di động. Trong nhà ai cũng có ti vi. Thậm chí có người sắm được tủ lạnh, lò vi sóng... Đình chợ, lúc nào cũng có thịt lợn tươi, gà vịt mổ sẵn bày bán. Cam quýt, táo lê mặc áo lưới bày một loạt. Hàng hóa tạp phẩm, quần áo, vải vóc chất cao ngất ngưởng…” (Bơm kim tiêm rải trắng nương ngô). Cuộc sống khấm khá là do buôn bán, là do người dân khai thác quặng thô đi bán sang Trung Quốc khiến đất đá quê hương bị đào bới, thung lũng cỏ hoa hóa nham nhở lở lói. Có tiền, trẻ con thì chơi bi-a, chơi game, người lớn mua xe ô tô để phơi nắng phơi mưa, còn thanh niên thì lêu lổng, nghiện ngập. Điển hình nhất là cảnh bơm kim tiên rải trắng nương ngô! Giáo dục và sự chịu khó cần cù không được chú trọng trong đời sống.
Băn khoăn trước hiện tại, Y Phương chỉ còn mong mỏi những giá trị vĩnh hằng tinh túy của dân tộc khi ngược dòng hoài niệm về quá khứ. Ông hình dung trong tâm trí khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng của thị xã Cao Bằng xưa: “Toàn cảnh thị xã Cao Bằng gọn lỏn, lúp xúp như một bãi bồi. Ở đó có những con đường ngắn tũn, chúng bị kẹp bởi hai con sông Hiến sông Bằng. Bốn mùa nước sông lơ lớ xanh. Con sông cũng lười biếng như con người. Nó thả bóng mây trôi đi giữa hai cây tre trăm tuổi. Còn những búi tre bên đường trông như các bà bụt trùm khăn nâu đỏ. Thỉnh thoảng các bà rung lên từng cơn, rú lên từng hồi, đuổi con ma tà ma ní trở về mường xúi” (Tắc kè nhớ núi).
Thiên nhiên đẹp thơ của Cao Bằng dường như còn hóa vào cả giọng nói của con người nơi đây. Tiếng của người Tày “...róc rách như con suối dòng thác ven rừng. Như tiếng đồng cỏ dưới chân núi Hoa. Nơi có bầy chim sáo đen, chim ri nâu, chim sẻ xám đang líu ríu vui đùa nhảy nhót. Lại nghe như có tiếng út ò, tiếng nghé ọ của đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ” (Vẫn còn một nơi sạch sẽ). Có lẽ những hồi tưởng thân thương nhất về khung cảnh quê hương, với đá núi, với cây cối, với những dòng sông uốn lượn trong xanh, giọng nói quê hương thân thuộc, trầm bổng, đằm thắm như ru yên lòng tác giả hơn, xua đi lo lắng, thắp sáng tâm tưởng của một người con yêu thương, tự hào về dòng máu dân tộc mình.
Khi nhìn thấy cuộc sống quê hương có nhiều đổi thay theo năm tháng, con người và cảnh vật hiện đại hơn, văn minh hơn, Y Phương vui mừng, nhưng cũng trầm tư mang những xúc cảm băn khoăn. Nhà văn nuối tiếc, thương nhớ những vẻ đẹp đã hằn sâu trong trí nhớ, những hình ảnh một thuở làm nên vẻ đẹp truyền thống của dân tộc. Đó là cái đẹp của tự nhiên, nguyên sơ, trong lành, vừa hoang dã vừa nên thơ.
N.T.N.H
VNQD