Về kiểu con người “vô tăm tích” trong tiểu thuyết Quyên của Nguyễn Văn Thọ

Thứ Năm, 25/09/2025 00:57

. LÊ THỊ KIM THÙY
 

Vốn không xác định gắn mình với nghiệp văn chương nhưng rồi văn chương lại đến với Nguyễn Văn Thọ như một duyên nợ. Chính đời sống bề bộn, ngột ngạt luôn hối thúc ông cầm bút để ghi lại. Dù viết về đất nước mình hay nước người, Nguyễn Văn Thọ đều viết với tâm thế của một người trong cuộc, từng trải, quan sát, chiêm nghiệm, nhìn cuộc sống một cách sâu lắng và trầm tĩnh. Sáng tác của Nguyễn Văn Thọ thể hiện tinh thần lao động miệt mài, nghiêm túc. Khi một “đứa con tinh thần ra đời” là ông “như vơi đi một chút sự mắc nợ”. Chính bằng sự trăn trở đau đáu đó, Nguyễn Văn Thọ đã đem đến cho người đọc những trang văn ngồn ngộn biến cố về cuộc sống mưu sinh của người Việt ở Đức, mà cô đặc hơn cả là trong tiểu thuyết Quyên (giải Nhì cuộc thi tiểu thuyết 2006 - 2009 của Hội Nhà văn Việt Nam). Tác phẩm này đã gây được tiếng vang, thu hút sự chú ý của bạn đọc trong nước cũng như ngoài nước (Đức), chứng tỏ sự đột phá của Nguyễn Văn Thọ trên con đường văn chương.

Tiểu thuyết Quyên là bức tranh tái hiện khốc liệt về cuộc đời, số phận của những người mưu sinh xa xứ, khiến người đọc không khỏi xót xa, ngẫm ngợi. Từ cảm thức về nỗi đau thân phận, trong bài viết này, người viết đi tìm thông điệp nghệ thuật ở kiểu con người “vô tăm tích” trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Văn Thọ.

Phản ánh, khám phá hiện thực đời sống là thuộc tính của văn học nên tác phẩm bất kì nào cũng là sự khúc xạ từ những vấn đề trong cuộc sống. Đó có thể là những xúc cảm, rung động hay tư tưởng, quan điểm của nhà văn trước cuộc sống, nó luôn náu mình trong những hình tượng nghệ thuật của tác phẩm mà tập trung trước hết ở các nhân vật, vì “nhân vật văn học nào cũng biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con người theo một quan điểm nhất định và qua các đặc điểm mà anh ta lựa chọn” (Trần Đình Sử).

Nhân vật Hùng và Dũng trong tiểu thuyết Quyên là một kiểu quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Văn Thọ: “con người sống và chết vô tăm tích”. Nếu con người sống mà từ chối gốc gác, nguồn cội hay sống chỉ bằng bản năng “con”, không có tình “người”, thì dù sống hay chết cũng chỉ là loại người “vô tăm tích”. Có sự vô tăm tích chủ động - tự xóa nhòa dấu vết, làm mất căn cước của chính mình - như Hùng và có sự vô tăm tích bị động như trường hợp của Dũng.

Trong tham luận tại một tọa đàm về tiểu thuyết Quyên, nhà văn Di Li tỏ ra rất tâm đắc hình tượng những con người “vô tăm tích”. Di Li đã dùng lí thuyết về “thứ bậc nhu cầu của con người” của nhà tâm lí học người Mĩ Abraham Maslow để soi chiếu Quyên. Chị chứng minh những nhân vật trong Quyên bị đẩy vào con đường cùng, bị tước đoạt hết các nhu cầu, chỉ còn lại nhu cầu bản năng nguyên thủy để rồi đi đến chỗ vô tăm tích... Chị cho rằng, con người luôn băn khoăn với câu hỏi sinh ra từ đâu, sẽ đi về đâu, Quyên của Nguyễn Văn Thọ đã đi tìm câu trả lời cho băn khoăn muôn thuở đó. Nếu trong Quyên, có nhân vật bị đẩy vào con đường cùng, bị tước đoạt hết các nhu cầu, chỉ còn lại nhu cầu bản năng nguyên thủy để rồi đi đến chỗ “vô tăm tích” như Di Li đã đề cập, thì ngoài ra còn có kiểu người sống mà từ chối gốc gác, nguồn cội hay nói cách khác là tự làm mất đi căn cước của mình, tức cũng trở nên “vô tăm tích”, như nhân vật Hùng.

Hùng là mạch chính, khi nổi lúc ngầm, xuyên suốt từ mở đầu đến kết thúc tiểu thuyết Quyên. Mở đầu Hùng đã xuất hiện với con người bản năng, vồ vập lấy Quyên để giải tỏa ẩn ức sau những năm tháng khát khao thỏa mãn bản năng bị dồn nén. Vì miếng ăn, vì muốn có nhiều tiền mà Hùng phải rời quê nhà sống lưu lạc xứ người. Và cũng vì tiền mà gia đình Hùng tan nát, Hùng “bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã, không xóm giềng, không dư luận; để tồn tại, phải mãnh liệt, huy động hết những sức mạnh tiềm ẩn thành ngọn lửa ghê gớm, có thể thiêu hủy tất cả, cả chính họ”. Cuộc đời Hùng thấm đẫm mưa gió, làm đủ mọi nghề, từ kẻ đưa đường, chuyển thuốc lậu, tiền lậu…, để có tiền. Hùng bị hoàn cảnh đẩy tới tận chân tường, “sống giữa rừng, không có luật pháp, chỉ có luật rừng, đã phát huy hết sức mạnh bản năng để tồn tại, và điều ấy, đẩy họ tới nhiều tội ác với chính đồng bào mình”, như chính Nguyễn Văn Thọ đã chia sẻ bên ngoài tác phẩm. Suốt thời gian lang bạt làm ăn Hùng vẫn ôm trong lòng mối hận thù chưa hóa giải được, nên khi gặp Quyên cũng là lúc tất cả cùng trỗi dậy: Hùng trút nỗi hận tình trong quá khứ, nỗi khát khao làm bố và khát khao được yêu thương nên thân xác đã làm nô lệ cho con người bản năng. Với Quyên, Hùng vừa là kẻ thù vừa là kẻ ban ơn mà có lúc bản thân Quyên không biết gọi tên cho tình cảm giữa mình và Hùng là gì. Dù cuộc sống ở rừng, bản năng con người Hùng trỗi dậy “sinh sự” cho cuộc đời Quyên, nhưng tính người trong Hùng vẫn chưa bị triệt tiêu. Phải chăng hoàn cảnh môi trường buộc một số người như Hùng phải thế?

Điều đáng nói là qua bao năm phiêu bạt xứ người, Hùng xóa luôn căn cước của mình, Hùng chối bỏ gốc gác, không ai biết địa chỉ quê quán Hùng ở đâu. Khi anh là nắm tro trong bình gốm, người ta phải truy tìm cho được địa chỉ để anh an nghỉ, để anh khỏi “vô tăm tích”, nhưng “trên tất cả các loại hồ sơ, giấy tờ của Hùng để lại, chỉ thấy ghi vài dòng chung chung: Nguyễn Văn Hùng. Nơi sinh Thái Bình”. “Hóa ra, bao nhiêu năm nay Hùng là người không một địa chỉ cụ thể. (…) Từ ngày cha mẹ Hùng mất, vợ chồng bỏ nhau, Hùng chẳng liên lạc với bất kì ai trong nước. Anh là một kẻ không xuất xứ, một loại người vô tăm tích, ngoài cái quốc tịch Việt Nam”. Hùng chủ động làm mất căn cước của mình phải chăng vì mặc cảm nhược tiểu?

Dân gian ta thường nói “nước có nguồn”, “chim có tổ, người có tông”, “lá rụng về cội”… Dường như người Việt xem cội nguồn luôn luôn là tổ ấm, nên dù có lên non hay xuống biển, từ Bắc vô Nam hay từ trời Đông trôi dạt sang Tây… thì cũng chỉ là giai đoạn tạm thời, vì “nước đi ra bể lại mưa về nguồn”. Vậy mà kết cục Hùng chết đi chỉ còn là nắm tro tàn trong bình gốm, không có một chốn về, “vô tăm tích”.

Nếu như Hùng chủ động vô tăm tích thì Dũng lại khác, anh bị vô tăm tích ngay trên xứ người, vô tăm tích từ những chương đầu của tiểu thuyết. Trong khoảnh khắc kinh hoàng nhất của cuộc đời Quyên, vào lúc Quyên cần Dũng nhất thì Dũng lại bỏ mặc Quyên. Quyên đã làm gì nên tội khi bị kẹt lại sau chuyến đi cùng chồng qua biên giới và bị Hùng - kẻ dẫn đường - cưỡng hiếp? Dù còn yêu thương vợ nhưng Dũng không thể nào thoát khỏi sự ám ảnh về thai nhi không phải của mình để có thể cảm thông cho điều bất hạnh ngoài ý muốn của Quyên. Sự lạnh lùng, thói quen ứng xử gia trưởng, chiếm hữu… xuất phát từ lòng ích kỉ của Dũng đã đẩy người phụ nữ mà anh yêu thương đến tổn thương ghê gớm và cũng là bắt đầu một chuỗi long đong lận đận của Quyên.

Rơi vào hoàn cảnh tương tự như Dũng nhưng Hội trong truyện ngắn Tha hương của Minh Thùy - nhà văn đang định cư tại Đức, lại có cách ứng xử khác. Hội “dứt áo ra đi lao động xứ người với niềm hi vọng: ngày về rủng rỉnh túi tiền, xây căn nhà mái ngói, có sân gạch phơi lúa, có cô vợ và vài nhóc tì chạy ra vào trong nhà”. Hơn mười năm lăn lộn với cuộc sống tha hương, Hội đã chán, muốn quay về thì Đào - người yêu Hội vẫn chung thủy chờ đợi và muốn sang với Hội. Nhưng ngày Hội đón được Đào ở xứ Tây Đức cũng là ngày anh ta như bị rơi xuống địa ngục khi nghe Đào khóc kể sự thật “cô bị hãm hiếp trên đường đi do chính kẻ dẫn đường”: “Em chống cự bị nó bạt tai, đánh đập, bóp cổ em gần chết, em sức yếu, không chống trả được. Sáng hôm sau, người dẫn đường khác đưa em đi tiếp qua Đức, còn hắn trốn biệt”. Hội đau khổ nhưng không chì chiết, xua đuổi vợ vì anh nhận ra đâu là kẻ gây nên tội. “Hội nghiến răng, ngồi im, nhưng đầu hắn làm việc. Chỉ cần chi tiền để mượn pass Đức của ai đó, đi qua Tiệp, gặp đường dây dẫn đường, truy tìm tên tội đồ kia. Phải cho nó bài học nhớ đời, chừa thói hãm hiếp phụ nữ yếu đuối. Hắn đủ gan trị những tên bất lương”. Hội bao dung, độ lượng, sẵn sàng tha thứ cho vợ và nhận làm cha cu Cò - không phải con của anh, để làm giấy khai sinh cho nó. Tuy lúc nó mới ra đời, anh vẫn còn buồn bực, nhưng nhìn nó lớn dần lên lại thương vì anh nghĩ rằng đứa bé hoàn toàn vô tội. Anh yêu thương cu Cò như con đẻ và sẵn sàng đưa về Việt Nam ra mắt hai bên nội, ngoại. Lối ứng xử đầy vị tha, nhân bản của Hội đã cứu vớt Đào ra khỏi tình thế cám cảnh, khổ đau. Hội là ân nhân giúp Đào hồi sinh và tin yêu hơn vào cuộc sống.

Dũng trong Quyên lại không chiến thắng được bản tính ích kỉ cố hữu của mình. Dũng “gieo tính cách gặt số phận”. Dũng chỉ tồn tại nổi trôi qua lời phỏng đoán của mọi người, sống hay chết, đi đâu về đâu không ai biết. “Dũng còn sống mà lưu lạc, dạt trôi như cánh bèo để những lòng phố chảy ngồn ngộn người và người kia cuốn mãi anh đi”. Vì thế câu hỏi “Dũng đi đâu?” cũng chỉ nhạt nhòa trong trí nhớ của mọi người rồi đến lúc sẽ không ai buồn nhắc lại nữa. Ẩn sau con người bị “vô tăm tích” như Dũng là quan niệm của tác giả về tình yêu và hạnh phúc. Hãy yêu chân thật, sống tử tế, vị tha. Lòng nhân từ độ lượng là thứ thần dược luôn cần cho con người, đặc biệt trong những lúc cuộc đời họ rơi vào đáy bi kịch.

Tiểu thuyết Quyên gợi những suy tư không dứt về thân phận, về ý nghĩa sự hiện hữu của con người trong cuộc đời này. Từ tiếng thở dài về thân phận con người trong cuộc sống li hương, tác giả vẫn tin về sức sống của cái đẹp luôn tiềm tàng trong sâu thẳm mỗi con người.

L.T.K.T

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)

Truy tìm Nadja

Truy tìm Nadja

Là tác phẩm nổi tiếng bậc nhất của André Breton, suốt nhiều thập kỉ, danh tính của nàng Nadja - người cũng được chọn là tựa đề sách - vô cùng bí ẩn.