László Krasznahorkai và Elfriede Jelinek: Hai thái cực của bóng tối và ánh sáng

Thứ Sáu, 17/10/2025 13:16

Giữa khoảng cách hai thập niên, Viện Hàn lâm Thụy Điển hai lần gọi tên hai nhà văn Trung Âu có vẻ như không liên quan là Elfriede Jelinek người Áo với giải Nobel năm 2004 và László Krasznahorkai người Hungary với giải Nobel 2025. Cùng xuất thân từ không gian Trung Âu, nơi lịch sử, tôn giáo và kí ức luôn chồng chéo như những lớp tro bụi. Elfriede Jelinek và László Krasznahorkai (Hungary) dường như đại diện cho hai hướng biểu hiện văn chương đối lập. Nhưng nếu suy xét kĩ, họ chính là hai cực âm - dương bổ sung cho nhau trong một thế giới văn chương đã đi đến tận cùng sự hoang tàn tinh thần từ sau thế kỉ XX. Có thể nói Elfriede Jelinek bóc trần xã hội bằng sự mỉa mai tàn nhẫn, còn László Krasznahorkai chiêm nghiệm sự sụp đổ của xã hội bằng nỗi u hoài tận thế.

Ở Elfriede Jelinek, ngôn ngữ là dao mổ. Bà xé toạc những lớp giả dối của đạo đức, dục vọng và chủ nghĩa tư bản tiêu thụ trong các tiểu thuyết như “The Piano Teacher” (Giáo viên dạy Piano) hay “Lust” (Dục vọng), biến văn chương thành một hình thức chống diễn ngôn, nơi mỗi câu chữ đều tấn công thẳng vào cơ chế quyền lực và sự thống trị của nam giới. Trái lại, ở László Krasznahorkai, ngôn ngữ là mê lộ với những câu văn dài như dòng ý thức không dứt trong các tác phẩm như “Satantango” hay “The Melancholy of Resistance” khiến người đọc rơi vào một nhịp điệu gần với âm nhạc hơn là văn xuôi, nơi thế giới hiện ra như một cơn ác mộng không có lối thoát. Nói một cách khác, ở Elfriede Jelinek, sự khó đọc đến từ ngôn ngữ căng thẳng, châm biếm, trần trụi và nữ quyền khi mổ xẻ những tầng sâu của dục vọng, bạo lực và chủ nghĩa tư bản trong xã hội Áo, nơi bề ngoài trật tự nhưng bên trong mục ruỗng. Ở László Krasznahorkai, sự khó đọc lại đến từ cấu trúc mê lộ, dòng ý thức triền miên và những ám ảnh tôn giáo.

Nhà văn Elfriede Jelinek.

Elfriede Jelinek giấu sau sự bình thản, vô hồn của con chữ là chất nghịch dị, mỉa mai và hài hước cay độc. Lối ngắt câu độc đáo, không viết hoa, tạo ấn tượng về một sự trễ nải miên man cố tình và một sự tuyên chiến không khoan nhượng với những quy tắc ngữ pháp buồn tẻ và phức tạp của tiếng Đức. Elfriede Jelinek, sinh năm 1946, đoạt một giải Nobel đầy tranh cãi, đến nỗi sau đó có vị ở Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã từ chức để phản đối. Giống như László Krasznahorkai, bà nổi tiếng ngay từ tác phẩm đầu tay là “Women as Lovers” (Tình ơi là tình). Là một phụ nữ, trong tác phẩm này Elfriede Jelinek như đã nhìn thấu tâm can của giới mình để trình bày lại hai câu chuyện tình tủn mủn, ngu ngốc, nực cười, nhưng lại đầy chua xót và cay đắng của hai người phụ nữ ít học làm công nhân ở một nhà máy, xem việc lấy chồng là mục đích tối thượng của đời mình. Ở một vùng nông thôn miền núi nào đó của nước Áo, brigitte (không viết hoa cho đúng với nguyên tác) ra sức mồi chài anh chàng heinz béo phị, nhưng có chút ít tiền. Suốt ngày cô nàng tâm niệm: "brigitte phải liệu mà kiếm một ông chồng không rượu chè, phải liệu mà kiếm một căn hộ đẹp, liệu mà kiếm vài đứa con. cô phải liệu mà kiếm đồ gỗ đẹp, rồi sau đó cô phải liệu tìm cách không đi làm nữa, rồi trước đó phải liệu trả góp hết tiền chiếc ô tô. rồi cô phải liệu trang trải được mỗi năm một chuyến đi nghỉ tử tế. rồi cô cũng lại còn phải liệu sao cho mọi việc cứ yên ổn như thế mãi". Cuộc mồi chài thành công, dù ghét heinz đến mức kinh tởm, brigitte đã được sống một cuộc sống như đúng mình mong ước.

Còn paula, cô gái "như mọi đàn bà, paula mơ về tình yêu", chưa tròn 16 tuổi đã làm mẹ, cũng đã thành công trong việc cưới một tấm chồng. paula mơ về một tình yêu, mơ về một hạnh phúc, nhưng phải bán thân để nuôi chồng, nuôi con, cuối cùng bị chồng li dị và sống tiếp một cuộc sống cô độc.

Tác phẩm của Elfriede Jelinek.

Giữa số phận của hai cô gái, là gương mặt tươi cười rạng rỡ của susi, một cô gái xuất thân từ tầng lớp khác, học thức nhiều hơn, và do vậy, tự cho mình cái quyền dạy dỗ và cứu vớt cả thế giới này, kiểu như: "susi còn nói, chỉ là phụ nữ thôi chưa đủ, người ta phải biết sử dụng những tố chất của phụ nữ đúng mục đích của nó: chăm sóc và nâng niu, và tương trợ theo hết nghĩa của từ này".

Dưới cái nhìn cay nghiệt và sắc sảo của Elfriede Jelinek, hình như ba cô gái này là những mẫu phụ nữ chúng ta thường gặp trong cuộc đời. Trong “Women as Lovers” Elfriede Jelinek còn cố tình đưa ra những câu triết lí bộc tuệch, giễu cợt, đầy cảm tính, kiểu như: "nếu một người có số mệnh thì đó là đàn ông, còn nếu một người chịu số mệnh thì đó là đàn bà"; "chọn được chồng tử tế là đúng. chồng tử tế là giống ta hoặc hơn ta một ít hoặc lí tưởng là hơn ta rất nhiều. chồng không tử tế là chồng dưới trình độ của ta; "làng và tiểu thuyết nhiều kì nói rằng đàn bà phải ở nhà trông nom bếp núc, giữ gìn nó và đừng vứt rác rưởi vào"…

Cả hai nhà văn chống lại sự dễ dãi của văn học đại chúng bằng cách Elfriede Jelinek tấn công ngôn ngữ quảng cáo, truyền thông và sự giả tạo của đời sống tư sản; còn László Krasznahorkai chống lại nhịp sống nhanh, sự tiêu thụ và lối tư duy đơn giản hóa của kỉ nguyên hậu công nghiệp và đang ở thời đại số. Ở cả hai người, ngôn ngữ đều là một cuộc chiến khi Elfriede Jelinek phá hủy để phơi bày quyền lực, László Krasznahorkai kéo dài để ép người đọc suy tư. Nếu Elfriede Jelinek giống như một nhà phẫu thuật xã hội, dùng văn chương để “xẻ thịt” những định kiến giới và đạo đức, thì László Krasznahorkai giống như một nhà tiên tri u uất, kể lại bản nhạc cuối cùng của nhân loại bằng một thứ văn xuôi dài vô tận. Vì vậy, dù khác nhau về giới tính, phong cách và chủ đề, họ có chung quan điểm rằng văn chương không sinh ra để làm đẹp, mà để chạm đến sự thật, dù sự thật ấy đau đớn, mệt mỏi và đôi khi không thể hiểu hết.

Dù khác biệt, cả hai đều kế thừa di sản tinh thần của Franz Kafka và Robert Musil, những nhà tiên tri sớm của sự tan rã châu Âu hiện đại. Nếu Franz Kafka nói về sự phi lí của bộ máy quan liêu, Robert Musil phân tích sự trơ lì của lí trí, thì Elfriede Jelinek và László Krasznahorkai đều nhận ra rằng ngôn ngữ, thứ công cụ từng được tin là cứu rỗi, giờ trở thành biểu tượng của sự bất lực. Trong văn chương của họ, không còn nhân vật anh hùng, chỉ còn những thân phận bị nghiền nát giữa những hệ thống vô hình.

Nhà văn László Krasznaborkai.

Nhà văn Áo Thomas Bernhard, người tiền bối của cả hai, từng nói: “Tôi viết để thoát khỏi sự giả dối mà tôi đang sống cùng nó.” Elfriede Jelinek và László Krasznahorkai tiếp tục tinh thần ấy, nhưng theo hai hướng đối lập, một bên phơi bày thế giới bằng ánh sáng chói chang của châm biếm, một bên đưa người đọc chìm dần vào bóng tối của chiêm nghiệm. Nếu Elfriede Jelinek là người phán xử xã hội, thì László Krasznahorkai là người cầu nguyện cho linh hồn nhân loại. Sự gặp gỡ của họ nằm ở niềm tin chung rằng văn chương không phải là liều thuốc an thần, mà là công cụ khiến con người tỉnh thức giữa cơn mê tập thể của thời đại kĩ trị. Trong kỉ nguyên mạng xã hội, nơi mọi thứ bị giản lược thành dòng status hoặc clip ngắn, sự xuất hiện của những nhà văn “khó đọc” như Elfriede Jelinek và László Krasznahorkai chính là lời nhắc rằng tư duy con người không thể bị rút gọn. Cả hai, mỗi người một cách, đều chứng minh một điều mà Franz Kafka từng dự cảm: “Sách phải là chiếc rìu bổ xuống lớp băng đang đóng lại trong tâm hồn chúng ta”. Văn chương của họ không hứa hẹn niềm vui, nhưng mở ra một khả thể hiếm hoi, đó là khả thể của sự tỉnh thức.

Khi Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel cho Elfriede Jelinek và László Krasznahorkai, họ dường như muốn khẳng định hai mặt của cùng một giá trị: Với Elfriede Jelinek, văn học là sức mạnh phơi bày quyền lực và giả dối. Với László Krasznahorkai, văn học là sức mạnh cứu rỗi và phục sinh tinh thần. Dù đi theo hai hướng, cả hai đều trung thành với niềm tin rằng ngôn ngữ vẫn còn khả năng lay chuyển thế giới. Trong thời đại của đọc nhanh và viết ngắn, họ nhắc con người nhớ rằng văn chương không phải để tiêu thụ, mà để tồn tại, để nói những điều không ai dám nói, hoặc để lặng im khi mọi thứ đã và đang nói quá nhiều.

HÀ THANH VÂN

VNQD
Thống kê
Bài đọc nhiều nhất
Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Nguyên mẫu của tôi là những người đã phất cao cờ hồng tháng Tám năm 1945

Là người đi dọc biên giới phía Bắc, tôi có thế mạnh khi hình dung, mở ra không gian của giai đoạn lịch sử đó... (PHẠM VÂN ANH)

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Các nguyên mẫu trong "Trăng lên"

Cụ đã kể cho tôi nghe về cuộc đời của mình. Cụ nguyên là một võ sư. Cuộc đời cụ có thể viết thành một thiên tiểu thuyết... (THẾ ĐỨC)

Từ những ánh sao đơn lẻ

Từ những ánh sao đơn lẻ

Năm 2023 với tôi được đánh dấu bằng những chuyến đi ý nghĩa, ý nghĩa với trải nghiệm của một người viết và ý nghĩa đối với chính việc viết... (NGUYỄN XUÂN THỦY)

Người cựu binh chiến trường K

Người cựu binh chiến trường K

Tôi luôn bị ám ảnh bởi những mảnh xước của chiến tranh, đó là sự khốc liệt nơi chiến trường, là người lính trở về với cuộc sống đời thường và nỗi niềm nơi hậu phương. (BÙI TUẤN MINH)