. LÊ THỊ HƯỜNG
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI. Trong xu hướng chung đó, văn chương của các nhà văn đoạt giải Nobel gần đây - Annie Ernaux (Pháp, 2022), Jon Fosse (Na Uy, 2023), Han Kang (Hàn Quốc, 2024) - đều gặp gỡ nhau ở quan niệm viết như một hành vi khơi gợi niềm tin vào cái đẹp. Ngày càng rời xa những hào quang và danh tiếng, văn chương Nobel áp sát vào những chấn thương nhân loại. Dữ dội, đau đớn, thành thật, những tác phẩm của các nhà văn đoạt giải Nobel văn chương gần đây chính là những thông điệp nhân văn, có giá trị chữa lành những sang chấn tâm hồn, hóa giải nỗi đau qua ngôn từ nghệ thuật. Ở đó, viết là một đam mê, và cũng là hành động đối mặt với nỗi đau. Ở đó, con người tìm lại chính mình qua những đứt gãy cộng đồng, khủng hoảng sinh thái và bất ổn căn tính.
Viết là một hành vi chữa lành
Không phải ngẫu nhiên, trong các diễn từ Nobel, các nhà văn đều bày tỏ quan niệm về việc viết. Với họ viết không đơn giản là một hoạt động nghệ thuật mà còn là một cách thức tự chữa lành.
Jon Fosse, nhà văn Na Uy quan niệm, “viết là một kiểu cầu nguyện”, “viết lách mang lại cho tôi cảm giác an toàn, mang lại cho tôi sự đối lập với nỗi sợ hãi”. Những sang chấn tuổi thơ khiến Jon Fosse trút niềm đau vào sáng tác với lối viết “lên tiếng cho những điều không thể nói thành lời”. Công việc viết đã giúp nhà văn thoát khỏi trạng thái trống rỗng thường thấy từ những nhân vật của ông: “Tôi cảm thấy trống rỗng. Rồi nỗi bất an này. Tôi sợ cái gì vậy. Sao tôi lại sợ” (Ánh sáng trắng). Tác phẩm của Fosse là những thông điệp chữa lành, xoa dịu những chấn thương tâm hồn của con người, như ông nhìn nhận: “Có khá nhiều vụ tự tử trong tác phẩm của tôi. Nhiều hơn những gì tôi muốn nghĩ đến. Tôi từng lo sợ rằng bằng cách này, tôi vô tình góp phần vào việc hợp pháp hóa tự sát. Do đó, không gì làm tôi xúc động hơn khi độc giả thẳng thắn kể rằng tác phẩm của tôi đã cứu sống họ”; “Trong chừng mực nào đó, tôi luôn biết rằng văn học có thể cứu người, thậm chí nó từng cứu mạng tôi cũng nên” (Diễn từ Nobel văn học 2023).

“Làm sao người ta có thể suy ngẫm về cuộc sống mà không suy ngẫm về việc viết lách?” (Diễn từ Nobel văn học 2022). Theo Annie Ernaux: “Viết là hành động chính trị, là hành động cởi mở bản thân và trao quyền cho những kẻ im lặng”. Với Ernaux, quá trình viết là để giải tỏa những dồn nén, xung đột bản ngã, kÍ ức tính dục, mặc cảm giai cấp. Trong một chừng mực, đó cũng là quá trình tự chữa lành, là phương thức “đối thoại với chấn thương”, là hành vi tự phẫu thuật chính mình, khơi lại những vùng kí ức tổn thương “để giải quyết tận gốc, bộc lộ và hiểu được những vết nứt chạy dọc người tôi”. Là những diễn ngôn chữa lành, tác phẩm của Ernaux thường có một nhân vật kể chuyện xưng “tôi”, kể về việc viết của mình, bày tỏ cảm xúc về chuyện viết như một sự giải tỏa những ám ảnh hoặc những cơn đau kí ức. “Tôi viết để giữ mình lại trong ranh giới của tồn tại” (Hồi ức thiếu nữ). Ernau có biệt tài viết về chấn thương một cách lạnh lùng, đơn giản, có vẻ như bà không chú tâm câu chữ, cách kể, cách tạo dựng hình ảnh nhưng giọng văn trắng và những câu văn rỗng lại ghim chặt nỗi đau. Ernaux bình thản khoét sâu vào những tổn thương kí ức để từ câu chuyện của một người nói lên tiếng nói chung về giai cấp, cộng đồng, về giới và quyền lực. Hội đồng trao giải Nobel đã vinh danh Annie Ernaux “vì lòng dũng cảm và sự nhạy bén sắc lạnh bà sử dụng để khám phá ra gốc rễ, sự bất hòa và những hạn chế của kí ức cá nhân”.
Han Kang - nữ nhà văn Hàn Quốc - đoạt giải Nobel văn học 2024 với “những áng văn xuôi mạnh mẽ, đậm chất thơ, đề cập trực diện những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của kiếp người” (Viện Hàn lâm Thụy Điển). Những ám ảnh về cái chết qua kí ức cá nhân, qua những biến động lịch sử đã thôi thúc Han Kang viết nên những tác phẩm “không thể không viết”. Bản chất của người phản ánh một cách chân thực những sự kiện nghiệt ngã về lịch sử đau thương ở Hàn Quốc những năm 1980 - phong trào Dân chủ Gwangju. Những tài liệu có thật đã ám ảnh nhà văn. “Phải viết, không thể không viết”. Tác phẩm nhìn thẳng vào đất nước Hàn Quốc, với những đàn áp chính trị như là một vết đen trong lịch sử. Đây là những trang viết tỉ mỉ, dữ dội về chấn thương, những cái chết tập thể tàn khốc, man rợ qua nhiều góc nhìn, nhiều giọng kể; những sự cố dồn dập, đứt gãy qua những hồi ức, những câu hỏi. Câu chuyện đặt ra những câu hỏi lớn về quyền lực, về nhân phẩm con người: “Con người là gì? Và để con người không trở thành thứ gì đó khác, thì chúng ta phải làm gì?”. Cùng những câu hỏi nhức nhối về hiện tồn, nhà văn liên tục đặt ra những câu hỏi về tính dân chủ, quyền lực đám đông, tội lỗi của con người, linh hồn, lương tâm, cái đẹp. Những tư liệu lịch sử được ghi/ kể lại bằng giọng điệu đầy suy tư và giàu chất thơ, vừa khắc khoải hoài nghi vừa tin vào bản chất con người: “Điều gì sẽ xảy ra với cá nhân từ chối thuộc về giống loài gọi là con người?”; “Bị sỉ nhục, bị bôi nhọ, bị tàn sát, phải chăng đó là bản chất của con người đã được chứng minh trong lịch sử?” (Bản chất của người). Những câu hỏi lặp đi lặp lại, khẩn thiết cho thấy tính tích cực trong cái nhìn cuộc sống của nhà văn. Bạo tàn, dã man, sỉ nhục không phải là bản chất của người mà sự hướng thiện, cái đẹp mới chính là bản chất của người. “Chúng sẽ lướt đi từ sợi bấc này sang sợi bấc khác, từ trái tim này sang trái tim kia, trên một sợi chỉ vàng?” (“Ánh sáng và sợi chỉ” - Diễn từ Nobel văn học 2024). Đó chính là thông điệp chữa lành của văn chương.
Ngôn ngữ chấn thương hay thông điệp từ nỗi đau câm lặng
“Chủ nghĩa tối giản Fosse” (theo Chủ tịch Ủy ban Nobel văn chương) trở thành tên gọi cho phong cách của nhà văn Na Uy và cũng là một lối viết của các nhà văn hậu hiện đại. Tiểu thuyết của các nhà văn đoạt giải Nobel gần đây thuộc dạng tiểu thuyết ngắn. Nhân vật là những bản thể phân mảnh, mất ngôn ngữ, đối thoại nội tâm đứt quãng hoặc dài lê thê (Aliss bên đám lửa - Jon Fosse). Ngôn ngữ tiểu thuyết là dạng diễn ngôn của chấn thương, cấu trúc đứt đoạn, lời kể phi tuyến (Một chỗ trong đời, Cơn cuồng si - Annie Ernaux). Có những tác phẩm chỉ là những dòng đối thoại nội tâm rời rạc, đứt gãy, từ những vùng mờ kí ức tổn thương (Ánh sáng trắng - Jon Fosse, Trắng - Han Kang).
Tiểu thuyết của Annie Ernaux “rất mỏng và khó xếp loại”. Ngôn ngữ chấn thương trong tiểu thuyết Ernaux lạnh lùng, tối giản nhưng khắc sâu. Tự sự chữa lành của Ernaux “chỉ đơn giản là bày nó ra”, là làm sống lại kí ức thương tổn một cách trần trụi nhất, là tách mình khỏi mình và tỉnh táo vượt thoát. Một chỗ trong đời được viết từ những đứt gãy, chấn thương giai cấp, sự rạn nứt với gốc rễ, mặc cảm tiến thân. Hồi ức thiếu nữ là sự hồi nhớ và đối mặt với những chấn thương tính dục. Cơn cuồng si là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu cho việc chuyển hóa kí ức cá nhân thành câu chuyện văn chương, ở đó viết là hành vi đối mặt với chính mình. Đề cập khủng hoảng tính dục, diễn ngôn trong truyện thể hiện tâm trạng cuồng điên và sợ hãi, vừa đam mê vừa nhục nhã, tràn ứ và trống rỗng. Tôi/người kể chuyện kể lại trạng thái mất kiểm soát bản thân, bất an và cuồng loạn khi phát hiện người tình cũ đã có người mới. Cơn cuồng si tình ái của nhân vật vượt qua những giới hạn thông thường, trở thành một trạng thái tâm lí ám ảnh gần như bệnh lí. “Tôi không còn là chính tôi, tôi là một nỗi ghen gặm nhấm chính mình”. Những cơn mơ. Những quá khứ thương tổn. Niềm “hi vọng mờ mịt rằng một nỗi đau cũ có thể hóa giải nỗi đau hiện tại”. Nhà văn viết ra kí ức thương tổn không phải để né tránh mà để đối diện với những cơn khủng hoảng tính dục. “Tôi viết về ham muốn để khống chế nó, để kiểm soát nó bằng từ ngữ”.
Tiểu thuyết Han Kang về cơ bản là cái chết, những thảm trạng lịch sử, nỗi thống khổ của con người. Trắng là “tiểu thuyết chứa đựng nhiều câu hỏi”. Cuốn sách mỏng mảnh vượt ra khỏi quy ước về thể loại, là dòng hồi ức, suy ngẫm của “tôi” trước cái chết của người chị gái để có lúc “tôi” thấy mình trong bóng dáng của chị, và “tôi” sống tiếp quãng đời lẽ ra của chị. Tác phẩm bàn nhiều về sự sống dẫu mở đầu là cái chết: “đứa trẻ mới ra đời được quấn chặt trong một lớp tả trắng như tuyết”, “đôi mắt đen và khuôn mặt trắng như bánh trăng tròn”; đứa bé chỉ sống được 2 giờ đồng hồ trong tiếng gọi thảng thốt của người mẹ “Xin con, đừng chết”. Cuốn tiểu thuyết giàu chất họa, chất thơ, quyện hòa với chất triết lí qua những trang văn ngắn như những bài thơ văn xuôi. Qua lối viết giản dị hàm súc, ý nghĩa sâu xa của tác phẩm nằm sau ngôn ngữ im lặng, vô ngôn, ngôn ngữ thân thể, hoặc dòng tâm tư. Từ kí ức về cái chết non của người chị gái, dòng tâm tưởng của “tôi” lướt từ suy nghĩ này đến cảm xúc khác, như một dòng trôi trên cái nền trắng và những biểu tượng văn hóa phương Đông, vô thường, sắc không, satna. Màu trắng và những câu hỏi. Sự sống bừng lên từ thiên nhiên qua màu trắng tinh khiết; cùng với trắng là ánh sáng, thể hiện niềm tin vào sự sống. “Đó là dấu hiệu của sự sống. Của cái đẹp”.
Hai tiểu thuyết xoay quanh biểu tượng trắng của Kang (Trắng) và Fosee (Ánh sáng trắng) đều đề cập ranh giới mỏng manh giữa sống và chết, về những vùng mờ kí ức thương tổn, về sự lạc hướng và rối rắm nội tâm. Tiểu thuyết của Jon Fosse rất ít lượng thông tin với những hình ảnh lặp đi lặp lại trong trạng thái vô thức chấn thương của nhân vật. Ánh sáng trắng là những trạng thái tổn thương tinh thần và hành trình xoa dịu kí ức qua ngôn ngữ câm lặng và những biểu tượng siêu hình. Cuốn tiểu thuyết chỉ hơn sáu mươi trang, như một cấu trúc nội tâm, lời thoại lẫn trong lời thoại, tâm vọng trong tiếng vọng, nhân vật nhòe trong nhân vật, người và cái bóng (“cái thứ đó” - cái thứ như là bóng) lẫn lộn, soi chiếu, cái sống lẫn trong cái chết..., với “những chữ như sáng chói, trắng, tỏa sáng, hồ như không còn ý nghĩa, và giống như ý nghĩa, phải, ý nghĩa không tồn tại nữa”. Bằng ngôn ngữ im lặng, nhà văn đã khơi thật sâu vào những tầng nghĩa chấn thương, từ đó nhân vật tìm được sự lắng dịu tâm hồn, quên nỗi sợ hãi cô đơn. Hư không, vô thanh, tiếng vọng từ kí ức là một dạng thức ngôn ngữ chấn thương, được cất thành lời bằng niềm khao khát của nhà văn: “Tôi viết vì tôi phải viết, và chỉ trong ánh sáng của ngôn từ, tôi mới thấy được mình”. Ánh sáng trắng là kí ức thương tổn nhưng ở đó, ánh sáng là hình ảnh chữa lành tối hậu, là sự tha thứ, giải thoát và yên bình.
Aliss bên đám lửa là tác phẩm tiêu biểu cho lối viết của Fosse, lối viết tối giản. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu cho loại văn chương chấn thương và chữa lành, viết về cái chết, sự đổ vỡ đồng thời là niềm tin và sự tái sinh. Aliss bên đám lửa là một cõi siêu hình, mù mờ, với những câu chữ lúc dài lê thê lúc ngắn đến tối giản, không có dấu chấm câu, chỉ có những dấu hỏi, những câu hỏi liên tục xuất phát từ những chấn động nội tâm; không có sự kiện chỉ có những trạng huống tâm lí mơ hồ, những dòng chảy vô thức không dễ nắm bắt. Nhân vật không hiện hữu, chỉ có kí ức và nỗi đau hậu chấn thương. Toàn bộ câu chuyện gần như là lời tự vấn của Signe, là đối thoại vô thức với bóng ma của quá khứ, là âm thanh vọng từ tâm trí (qua câu chuyện người chồng đã mất sau một lần chuyền chèo thuyền ra vịnh, qua kí ức về cụ kị Aliss và đứa con bị chết đuối). Không gian thực ảo lẫn hòa vào nhau, những hình ảnh lặp đi lặp đến vượt ngưỡng, lúc tách rời đối lập, lúc hòa nhập như một thứ ngôn ngữ biểu trưng cho những sang chấn nội tâm. Lửa. Bóng tối. Lạnh cóng. Cháy. Chiếc thuyền gỗ bé. Những con sóng. Sự biến mất. Hình ảnh lặp đi lặp lại trong suy nghĩ, trong ảo giác, trong liên tưởng. Những mảnh vỡ kí ức lẫn lộn, rối rắm, lặp đi lặp lại như một mê cung của một hồi ức chỉ có đứt gãy và mất mát. Cách viết tối giản này như là một cách biểu đạt niềm câm lặng của nỗi đau. Trong trường hợp đó, ngôn ngữ trở thành giới hạn, chỉ còn những khoảng lặng, những ngắt quãng hay những lặp lại như một ám ảnh. Những con mắt trừng trừng ngay giữa đám lửa. Những con mắt như tìm được giọng nói, “tiếng hú từ một mắt và rồi sau đó là tiếng hú rải rác từ rất nhiều con mắt”; những bức tường và “giọng nói thinh lặng đang phát ra từ chúng”... Đó là tiếng nói của kí ức chấn thương. Nhưng giữa nền bóng tối xuyên suốt, lửa lại là biểu tượng hồi sinh. Chính Jon Fosse từng nói: “Khi tôi viết, tôi cố gắng giữ ngọn lửa nhỏ trong bóng tối”. Với niềm tin vào Kitô giáo, nhà văn Na Uy khép lại kí ức đau thương trong Aliss bên đám lửa bằng lời khấn nguyện: “...rồi cô đặt cả hai tay lên bụng và cô chắp tay lại và tôi nghe thấy Signe nói: Lạy Chúa Con, cứu con, Người phải cứu con, Người”. Kết thúc tác phẩm nghĩa là kết thúc những dòng chảy nội tâm cũng không có dấu chấm, nỗi đau còn đó nhưng để lại cho người đọc niềm tin về sự cứu rỗi.
Các nhà văn đoạt giải Nobel những năm gần đây đều nói lên tiếng nói chung xoay quanh vấn đề bạo lực, tổn thương tinh thần, tình yêu, cái chết. Tác phẩm của họ là những kí ức thương tổn, là sự phản ánh những “cái không thể nói thành lời” ám ảnh thành những sang chấn nội tâm. Với họ, viết trước hết là hành động tự chữa lành, đồng thời giải thoát nỗi đau của con người. Nghệ thuật viết là hành trình truy tìm ý nghĩa qua những đổ vỡ, là cách níu giữ nhân tính trong một thế giới bị thương. Văn chương Nobel đương đại mang thông điệp chữa lành không chỉ cho cá nhân mà còn cho cộng đồng nhân loại. Từ một góc nhìn, có thể thấy văn chương đang đảm nhiệm vai trò như một liệu pháp tinh thần trong xã hội hiện đại nhiều tổn thương và khủng hoảng. Qua những bi kịch mang tính cá nhân, cộng đồng, dân tộc, văn chương trở thành “sợi chỉ vàng” nối kết giữa bóng tối và ánh sáng, giữa nỗi đau và hi vọng.
L.T.H
VNQD