. HỒ ĐẮC THẠNH
Sau mấy ngày được phép nghỉ ngơi và chuẩn bị, chúng tôi báo cáo kết quả chuyến đi mở đường chuyển vũ khí vào bến Vũng Rô, Phú Yên của tàu 41. Câu chuyện người chiến sĩ bảo vệ bến “mấy hôm nay đơn vị hết gạo phải ăn trái sung” cứ day dứt trong lòng. Thành phần tham dự cũng đông đủ như cuộc họp giao nhiệm vụ lúc ban đầu. Thay mặt cán bộ thuyền, tôi báo cáo tình hình chuyến đi, hoạt động của địch trên từng đoạn đường, việc tổ chức đón nhận hàng tại bến… Cả gian phòng lặng im khi nghe tôi báo cáo: “Các anh ở bến mấy tuần nay phải ăn trái sung làm nhiệm vụ chờ đón tàu ta vào”.
Sau khi đánh giá kết quả chuyến đi, Tư lệnh Quân chủng Hải quân nói “Từ nay trong hoạt động vận chuyển chi viện chiến trường chúng ta có thêm một bến mới: Bến Vũng Rô. Qua chuyến đi của tàu 41, tuy điều kiện đón tiếp, tổ chức bốc dỡ hàng có nhiều khó khăn nhưng bến vẫn đảm bảo được, theo dõi vẫn chưa thấy địch có phản ứng gì, vẫn còn là nơi địch sơ hở. Thường vụ Đảng ủy và Tư lệnh Quân chủng có trao đổi và quyết định chuyến đi thứ hai của tàu 41. Chuyến đi này ngoài số hàng là vũ khí trang bị, theo đề nghị của cán bộ, chiến sĩ tàu, ta nên chuyển một số gạo chi viện trực tiếp cho lực lượng bến”.

Tàu 41 - Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Lữ đoàn 125 HQ) 3 lần vào Vũng Rô - Phú Yên - Thắng Lợi. Ảnh:TL
Gạo! Có gạo, có vũ khí sẽ mở rộng địa bàn giành dân và khi đã có dân rồi sẽ có gạo. Mối quan hệ nhân quả mà người chiến sĩ bảo vệ bến nói với tôi trong đêm bốc hàng, tuy không lí luận cao siêu nhưng đầy tính thuyết phục. Nhưng việc chuyển một số gạo vào miền Nam - tuy rất ít - trong tình hình nhu cầu vũ khí chi viện chiến trường cấp thiết cũng làm nảy sinh nhiều ý kiến. Nào là, “trong lúc ta tận dụng từng khoảng trống nhỏ của tàu để xếp vũ khí thì đem xếp 2-3 tấn gạo vào chiếm hết chỗ!”, “chở gạo vào miền Nam là chở củi về rừng” …
Gạo! Chỉ có chúng tôi mới hiểu hết sự cấp thiết của gạo lúc này đối với các đồng chí ở bến. Vì vậy, khi đã có quyết định của Tư lệnh rồi, ngoài việc lo xuống hàng là vũ khí trang bị, tàu cử một số đồng chí tiếp nhận vận chuyển gạo xuống tàu. Đồng chí Lộc thuyền phó hậu cần được giao trọng trách đó.
Buổi chiều chuẩn bị cuối cùng, sau khi đóng cố định các nắp hầm hàng, đồng chí Lộc đưa tôi xem phiếu xuất 3 tấn gạo tám thơm dành riêng cho bến. Gạo để nơi khô ráo nhất trong khoang hàng để phòng gió mùa đông bắc tạt nước lên ẩm ướt. Thế là chuyến đi thứ hai này ngoài vũ khí trang bị, tàu tôi còn có thêm 3 tấn gạo tám thơm. Số lượng tuy ít nhưng nó là món hàng đặc biệt của nhân dân miền Bắc vất vả một nắng hai sương làm ra dưới bom đạn ác liệt của máy bay giặc Mĩ, gửi đến những chiến sĩ đang ngày đêm đối mặt với quân thù nơi miền Nam tiền tuyến - bến Vũng Rô quê tôi.
Chuyến đi thuận lợi, sau bốn ngày đêm vật lộn với sóng to gió lớn, lách tránh một vài lần tàu tuần tiễu của địch, tàu chúng tôi vào đúng bến Vũng Rô. Khi còn cách bờ một cây số, tàu nhận được tín hiệu của bến, dẫn dắt vào nơi trú đậu ngụy trang.
Vui mừng khi gặp lại nhau. Những cái bắt tay, những nụ cười rạng rỡ. Đứng bên cạnh, anh Sáu, anh Trần Ngọc Quang (người theo tàu tôi chuyến trước) ghé tai nói nhỏ với tôi, “chúc mừng tàu nẫu lại dô”, và cả ba cùng cười.
Mọi công việc lại tấp nập khẩn trương. Nào cho tàu đi giấu và ngụy trang trước khi trời sáng, nào tổ chức lực lượng chốt chắn các hướng trọng điểm, nhưng bận rộn nhất vẫn là việc chuẩn bị dân công bốc dỡ hàng. Tuy có kinh nghiệm của chuyến trước nhưng việc bốc dỡ hàng chuyến này phức tạp hơn vì đoạn đường xa và phải vận chuyển tới nơi cất giấu trong đêm.
Tôi báo cáo với anh Sáu, chuyến này ngoài hàng vũ khí trang bị còn có 3 tấn gạo tám thơm dành riêng cho lực lượng bảo vệ bến. Nỗi xúc động dâng trào trên mắt người lãnh đạo bến. Vốn biết anh là người rất nghiêm khắc - ngay cả với bản thân - trong việc sử dụng lương thực những năm tháng gian khổ của cuộc chiến tranh. Tôi từng nghe người cần vụ kể, “có lần trên đường đi công tác, bắt được một con rùa. Mừng quá, vì đã mấy ngày ăn muối, người cần vụ đề nghị giết rùa xào với măng rừng nhưng anh không cho và bảo đem thả vào một hốc đá cho rùa lớn lên sinh sản ra nhiều rùa con khác để dành khi gặp khó khăn hơn”. Tuy biết vậy, nhưng tôi vẫn mạnh dạn đề nghị anh tranh thủ phát gạo cho anh em ăn lấy sức tối mai bốc dỡ hàng. Dừng một lát như đắn đo suy nghĩ, sau cùng anh chấp nhận. Thế là nắp hầm hàng được mở ra, từng bao gạo cấp cho các đơn vị được tiến hành trong đêm.
Cầm bao gạo trong tay, anh chiến sĩ bảo vệ bến rưng rưng nước mắt. Hạt gạo trắng trong như tấm lòng miền Bắc. Hạt gạo nghĩa tình lắng sâu ngưng đọng. Ai đã trải qua những ngày ăn trái sung, rau rừng càng thấy quý hạt gạo bát cơm. Có gạo rồi nhưng vẫn phải ăn dè sẻn. Không cần phải ai ra lệnh mà tất cả mọi người đều chung một ý nghĩ: vì công việc dài lâu của bến.
Núi rừng Vũng Rô qua một ngày yên tĩnh. Mọi hoạt động của địch vẫn bình thường. Mong đợi của chúng tôi rồi cũng đến, khi màn đêm buông xuống, núi rừng Vũng Rô như sôi động hẳn lên. Cũng chiếc cầu tàu bằng cây rừng làm tạm, hàng trăm dân công tấp nập chuyển hàng.
Gần bốn giờ sáng, mọi công việc hoàn tất. Giờ phút chia tay biết bao lưu luyến. Những ánh mắt, những nụ cười và bao dòng lệ chảy.
Tàu từ từ rời bến.
Tạm biệt Vũng Rô. Tôi nhớ mãi câu chuyện người chiến sĩ bảo vệ bến: “Có gạo, có vũ khí, chúng tôi sẽ mở rộng địa bàn giành dân. Mà đã có dân là có gạo”, trong lòng tôi tràn đầy niềm vui sướng. Trước mắt tôi, hình ảnh của một miền quê Phú Yên đang vang dậy tiếng reo hò xông lên diệt lũ ác ôn, phá thế kìm kẹp mở rộng vùng giải phóng, có phần của những hạt gạo, những khẩu súng trong chuyến hàng “đặc biệt” hôm nay.
H.Đ.T
VNQD