. NGUYỄN THỊ LOAN
Cái nắng của cuối hạ chớm sang thu. Trời nồng lên oi nực, không bóng rát, gay gắt nhưng hanh hao, bức bối. Cánh đồng trước mặt như bị hong khô, hơi nước bốc lên mờ mờ làm lễnh loãng bầu không khí. Căn nhà lợp ngói nho nhỏ nằm cạnh quả đồi trơ trọi mấy cây na lá ngả vàng. Thằng An ngồi bệt nghịch mấy thứ đồ chơi lem luốc đầu hiên nhà. Quả bóng nhựa lăn ra xa, nó bò hai tay, kiên nhẫn lết đến gần để nhặt. Đôi chân của nó lê trên mặt đất trong chiếc quần dài màu ghi cáu bẩn, dường như không có cảm giác đau đớn vì da thịt bị chà sát.
Ông Bảy cuốc đất ngoài vườn, thi thoảng liếc mắt trông chừng đứa cháu nội. Gần tám tuổi nhưng bị liệt nên thằng bé chỉ có thể quanh quẩn trong nhà. Mặt trời lên cao dần, vừa xới xong hai luống đất thì mồ hôi đã ướt lưng áo. Ông nghe có tiếng mắng mỏ từ trong nhà vẳng ra. Bỏ cái nón đi lên, ông thấy con dâu út vừa lau vũng nước bên cạnh mấy mảnh chén vỡ vừa quát thằng bé.

Minh hoạ: Nguyễn Bá Kiên
Thằng An cúi mặt sợ sệt nhìn thím rồi quay sang ông, đôi mắt cụp xuống. Chả biết nó lê lết thế nào, làm đổ cả chén trên bàn. Ông thở dài cúi xuống xắn lại tay áo cho nó, biết cháu buồn, ông dỗ:
- Đợi ông làm nốt luống đất gieo cải, ông lại cõng cu An đi ra đê ngồi hóng mát nhé.
Chỉ niềm vui nhỏ bé ấy thôi đã nhóm lên trong đôi mắt của thằng An những tia sáng rạng rỡ. Nó cười ngô nghê, nhìn ông bằng cặp mắt hiền và long lanh.
Con đê trong buổi chiều tà tím thẫm bóng hoàng hôn và những vạt cỏ may. Ông vuốt mái tóc đen mượt của thằng An, bỗng thấy lòng buồn mênh mang. Thằng bé nhìn không rời mắt con diều lên cao dần trong cơn gió lộng lên từ mặt đê, cố rướn lên cao, cao mãi, với lấy những đám mây tím thong thả. Ông chẳng biết trong thằng An lúc này sẽ là gì hay chỉ là khoảng trắng thôi. Nó chẳng bao giờ hỏi ông về mẹ. Có thể nó không nhớ, hoặc trong đầu óc chậm chạp chưa kịp có những hình ảnh ấm áp, thân thuộc về người đã sinh ra và bỏ nó mà đi.
Đó là ngày cơn mưa sụt sùi không dứt. Con trai cả của ông đi làm về ngang buổi, như thể có dự cảm gì đó về buổi tối hôm trước. Nó sục vào trong phòng người vợ mới sinh, rồi hoảng hốt bỏ ra ngoài cửa nhìn xuyên qua màn mưa. Căn phòng phía trong đồ đạc quần áo còn nguyên, như thể mẹ thằng An chỉ đi dạo đâu đó quanh đây rồi sẽ trở về. Thằng An mới bốn tháng nằm trên giường, đôi chân mềm nhũn, thẳng đuồn đuột nên chẳng thể đạp rối lên như những đứa trẻ khác. Nó chỉ biết hua đôi tay bé tí vào khoảng không trước mặt.
An là đứa con thứ ba trong năm năm liên tục mang thai và sảy thai của mẹ nó. Hai đứa đầu chỉ được đến giữa thai kì thì trôi tuột ra. Đứa đầu thấy lâm râm đau bụng, hai vợ chồng dắt díu nhau vào viện, nhưng chẳng giữ được. Đứa thứ hai không đau đớn gì, khi mẹ nó ra hái rau ở vườn, bỗng có cái gì sụp xuống, nhẹ bẫng thân thể. Ông thoáng nghe thấy tiếng khóc đâu đó nghẹn nghẹn, vừa nấc lên rồi rên xiết như tiếng mèo. Ông chạy ra, thấy mẹ nó ngồi thụp giữa hai luống rau, vạt váy bết lại bởi thứ nước nhờ nhờ, dấp dính, hai bàn tay nhầy nhụa vấy đỏ nâng lên một hình hài dị dạng với cái đầu to, đôi mắt lồi mòng mọng. Tất cả là một khối đỏ đỏ hơi ngả tím. Ông chưa từng quên được khoảnh khắc ấy, đôi bàn tay nhuốm máu và khuôn mặt méo mó biến dạng của mẹ thằng An. Ông đã lờ mờ nhận thấy một sự bất thường đang chớm lên, hiện hữu.
Những ngày sau đó, mẹ nó không nói không rằng, ngồi bất động trong phòng đến mấy hôm. Ít lâu thì mọi thứ qua đi, như chẳng có chuyện gì. Là giả vờ như chẳng có chuyện gì thì đúng nghĩa hơn. Bởi không khí trong nhà trầm lắng. Mỗi người đều trốn tránh theo cách của riêng mình, tránh nhìn vào mắt nhau, hay động chạm đến chuyện đã qua.
Riêng ông Bảy thi thoảng ngồi lặng đi giữa những luống đất hăng mùi rơm rạ và củi mục. Ông ngồi rất lâu và nhìn đôi tay mình. Bàn tay có những ngón chai sạn đốm vàng vàng, cổ tay đầy gân, lần lên phía trên những bắp tay rắn chắc, đỏ sạm nắng. Ông không quen sự thảnh thơi nhàn hạ. Ngày còn ở chiến trường, đôi tay ông đào hầm hào nhanh và khỏe. Ông còn nhớ những năm cuối 1960, Vĩnh Linh chìm trong khói lửa đạn bom của giặc Mĩ. “Một tấc không đi, một li không rời”, quân và dân Vĩnh Linh đã âm thầm chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất. Ông và biết bao đồng đội ngày đêm đào địa đạo. Những người nằm xuống, máu tưới đỏ thớ đất. Một địa đạo xuyên qua lòng quả đồi đất đỏ bazan dần hình thành. Mất mát và hồi sinh. Nhiều đứa trẻ được sinh ra ngay trong lòng địa đạo. Ông chẳng thể nào quên được địa đạo Vịnh Mốc, nơi trú ẩn, chiến đấu của quân và dân những ngày khó khăn đó. Kí ức vẫn còn mới mẻ lắm. Đến giờ dù đã hơn sáu mươi tuổi, những nhát cuốc của ông vẫn sắc ngọt. Ông cảm thấy mình còn sung sức như ngày ấy thôi. Khi vãn việc nhà, ông sang đỡ đần hàng xóm công việc ruộng đồng, chẳng nề hà gì, chỉ cần một lời nhờ, vài chén nước chè. Ông chưa từng nghi ngờ về sức khỏe và thân thể của mình. Giờ đây, ông lặng nhìn đôi tay, lòng đầy nghi hoặc. Rồi ông thẫn thờ lục lại trí nhớ, khi hai đứa con trai của ông ra đời. Vợ ông sinh con lần nào cũng khó. Khi sinh con thứ hai, bà đỡ bưng ra một chậu toàn khăn với máu. Thế rồi những đứa con cũng lành lặn ra đời, nhanh nhẹn, khỏe mạnh. Chỉ có vợ ông sức khỏe sa sút. Có lẽ vì suy kiệt mà bà sớm bỏ ba bố con ông mà đi. Nhiều buổi chiều liền như thế, ông cứ bần thần bên những luống đất mới vỡ, mặc cho mặt trời dịu dần, lặng lẽ lụi về phía chân đồi.
Mọi thứ qua đi khi mẹ thằng An lần nữa mang bầu, sinh ra nó đủ ngày đủ tháng. Thằng bé ít khóc cười, ngoan hơn hẳn so với những đứa trẻ khác. Ra ngoài tháng, cả nhà bỗng nhận ra chân nó chẳng thể cử động, cũng chẳng biết khóc đòi ăn, hay mừng rỡ khi gặp người quen, người lạ. Nó hiền lành như cục bột, cho ăn thì ăn, đặt xuống giường thì nằm bất động nhìn lên trần nhà, thi thoảng hua đôi tay vô thức về trước mặt. Niềm vui mừng bỗng trở nên trầm xuống.
Tiếng ru trong phòng vẳng ra run rẩy hòa vào gió mưa mỗi đêm. Có nhiều hôm, tiếng hát ru rời rạc đến tận sáng trong cái quạnh vắng chỉ thấy tiếng gió và những cành nhãn cào vào cửa sổ. Nhiều ngày trôi qua, tiếng hát ru bỗng nhiên im bặt. Bố thằng An phát hiện ra vợ lại ngồi thất thần, chẳng còn cho con bú. Vào một ngày mưa, mẹ nó bỏ đi, không mang theo gì, dù chỉ là một bộ quần áo. Cả nhà đổ đi tìm suốt cả thời gian sau đó nhưng vô tăm tích.
Không lâu sau, con trai cả gặp tai nạn ở công trường bỏ lại thằng An cho ông. Ở cái tuổi xế chiều, ông lại trở thành người cha.
Khi thằng An vừa tròn bốn tuổi, nó mới có thể ngồi vững. Một chiều mùa đông xám ngắt như chì, người đồng đội tới thăm ông. Bên chén trà nguội ngắt, khách run run nâng chén trà nguội nhấp môi. Nhìn thằng An, người đồng đội như thấy lại đứa cháu đã mất của mình. Một đứa trẻ cũng sinh ra không nguyên vẹn hình hài. Hai người đàn ông tóc đã điểm bạc, im lìm nhìn màn mưa bắt đầu buông xuống ngày càng dày. Cái lạnh buốt xuyên vào lòng tê tái. Ông Bảy lại bắt đầu nghĩ ngợi, xới lật những mảng kí ức cằn cỗi. Là ở đâu, khi nào, trong suốt những năm tháng hành quân dài dặc của ông...

Minh hoạ: Nguyễn Bá Kiên
Nhiều đêm sau đó, trong giấc mơ, ông thấy những ngày mình cùng trung đội lạc trong khu rừng ven đường 15. Vòm lá trong phạm vi mấy cây số cháy khô vì hóa chất, rụng tơi tả dưới chân. Làn khói vàng quạch trôi lờ nhờ, váng vất trên đầu, quện lại như vón cục, rồi trong khoảnh khắc, chúng đột ngột tản ra, theo gió và không khí trôi ràn rạt xuống, vươn cánh tay dài ngoằng quấn lấy những bóng người áo xanh phía dưới. Cả bầu trời phủ một màu vàng cam rợn ngợp như cả khu rừng đang cháy. Mùi hóa chất ngột ngạt và khó chịu hun nóng những lá phổi. Từ bầu trời vàng vọt ấy, chúng hóa thành sương, thành mưa mù rơi xuống, ướt mũ cối, ba lô và quần áo đoàn người phía dưới. Một cơn mưa màu vàng đặc quánh. Những đồng đội bỗng nhiên biến mất ngay trước mắt ông. Trong khu rừng trơ trụi và khẳng khiu những thân cây chết ấy, ông bỗng nhìn thấy thằng An. Thằng bé trần truồng không một mảnh áo quần. Đôi chân của nó hoàn toàn lành lặn. Nó đi chân đất giữa khu rừng, xuyên qua những đám mưa mù màu vàng. Ông choàng tỉnh, mồ hôi ướt lạnh lưng. Ông choàng tay ôm lấy thằng An đang say ngủ, hít mái tóc có mùi khét của nó, thấy quặn thắt niềm thương xót.
Trời tối, những đám mây tim tím chuyển dần sang thẫm. Trăng non hình lưỡi câu đã treo phía bụi tre. Ông cúi xuống để thằng An nhích người trèo lên lưng. Nó càng ngày càng nặng, ông cõng nó đứng dậy. Bóng hai ông cháu liêu xiêu đi xuống con dốc chìm dần vào bóng tối làng quê vẳng tiếng côn trùng rả rích.
Sau bữa cơm, ông Bảy nhìn mấy đứa cháu chơi dưới chiếu. Hai đứa cháu con thằng út đã lên năm, lên bảy. May mắn chúng sinh ra và lớn lên nhanh nhẹn, hoạt bát. Sau khi có thằng An, ông cứ thấp thỏm trông những đứa trẻ nhà thằng út, quan sát chúng từng ngày. Xen lẫn nỗi vui mừng, nhẹ nhõm, khi thấy bọn trẻ khỏe mạnh, ông càng thương thằng An hơn.
Ông Bảy vừa xuống dưới nhà quay lên đã thấy hai đứa em cầm đôi chân tật nguyền của thằng bé mà kéo lê. Thằng An cười hiền vì chỉ cần có người để mắt đến là nó vui rồi. Không có người lớn là chúng lập tức giở những trò đùa oái ăm, dạt dột. Ông Bảy cáu quá quát lớn. Hai đứa trẻ con tái mặt, òa lên khóc. Con dâu ông chạy từ dưới bếp lên, bênh con: “Bố làm gì mà thiên vị cháu lớn thế? Trẻ con nó biết gì đâu?”. Ông bực bội gắt lên: “Đồ ích kỉ”. Đứa con dâu cúi mặt bỏ xuống dãy nhà dưới. Hai đứa bé chạy theo mẹ. Chỉ còn thằng An ngồi ngơ ngác, ông cúi xuống xoa đầu nó. Lòng ông chùng lại, là ông chẳng biết đổ lỗi cho ai. Là ông tự trách chính mình. Ông nổi nóng và bất lực bởi chẳng thể làm gì cho nó.
Một cơn mưa và gió heo may về bỗng chốc xóa tan đi bầu không khí nóng bức. Những cây na, cây bưởi ngoài vườn trĩu quả. Mùi ổi chín ngoài vườn lôi kéo những đàn chim sâu, khướu đen bay về ăn quả, rúc rích trên mái nhà. Thằng An đưa đôi mắt trong trẻo nhìn lên bầu trời xanh. Dường như với nó, đó là những thứ tuyệt đẹp và kì diệu nhất thế gian. Rồi ánh mắt nó bị thu hút vào đám trẻ hàng xóm đang chơi phía bên kia bức tường đất. Những chiếc đèn ông sao dán giấy xanh đỏ như có ma lực làm nó thần người ra. Ông Bảy chợt nhớ sắp tới tết trung thu rồi. Với người lớn có thể không để ý đến, nhưng ông biết tết trung thu với bọn trẻ con là ngày đặc biệt lắm. Đứa nào cũng hào hứng với thứ đồ chơi mới được bố mẹ mua cho, được vui đùa cùng lũ bạn. Năm ngoái, ông còn nhớ, cũng dịp trung thu này, thằng An ngồi trước hiên nhà nhìn hai em và lũ bạn cùng xóm chạy nhảy với những chiếc đèn nhiều màu sắc. Ông vội làm đồng vì vào mùa gặt, chậm tí nữa thì không kịp vụ sau, vì thế mà quên mất trung thu của cháu. Nhìn thằng bé lủi thủi, ông vội đi tìm cái hộp xà phòng nhựa màu trắng, đục lỗ, buộc dây, một đầu có tay cầm bằng tre, phía trong hộp đặt một cây nến nhỏ. Đó là thứ đồ chơi ngày thơ ấu còn thiếu thốn của ông. Thằng bé vui sướng lắm, mặc cho những đứa trẻ khác chê bai thứ đồ chơi xấu xí của nó. Thằng bé tay cầm cái đèn bằng hộp xà phòng, ngồi yên lặng trước khoảng sân tối mênh mông. Đôi chân nó không thể chạy nhảy, bàn tay nhỏ cầm chặt cái que cầm bằng tre. Những đứa trẻ đã đi rước đèn sang xóm khác, chỉ còn lại cây nến trong chiếc hộp của thằng bé vẫn sáng lay động cả một khoảng sân vắng lặng. Ông tự nhắc mình năm sau sẽ chuẩn bị đồ chơi cho thằng bé, sẽ đưa nó đi rước đèn để nó khỏi cảm thấy thiệt thòi với các bạn.
Hôm nay đã là mùng mười. Còn vài ngày nữa sẽ tới tết trung thu. Năm nay gặt hái sớm, được mùa, ông đã ra tận huyện mua mấy hộp bánh cho ba đứa cháu, những chiếc đèn lồng và một bộ quần áo thật đẹp cho cu An. Ông tưởng tượng ra lúc thằng An vui vẻ trên lưng, hai ông cháu hòa vào đám trẻ nhỏ, cùng nhau rước đèn qua triền đê, qua những hàng rào bằng tre và cúc tần, phía trên đầu trăng sáng vằng vặc. Thằng bé sẽ vui sướng, lóng lánh đôi mắt, niềm vui nhỏ bé của nó cũng lan sang ông, trong lòng ông cũng như được một làn gió mát thổi qua nhẹ nhàng và êm ái.
Hôm ấy, ông ra vườn để trẩy quả chuẩn bị cho mâm ngũ quả. Nào bưởi, nào ổi, na, chuối, vườn của ông đủ cả. Thêm mấy chiếc bánh, mấy gói kẹo là lũ trẻ đã có mâm cỗ đầy đủ. Ông trèo lên cây ổi, lựa quả to đẹp, đang với tay hái thì ông nghe trong nhà có tiếng đổ rồi tiếng loảng xoảng. Ông vội vã leo xuống, bước thấp bước cao chạy vào. Con dâu ông đứng cạnh đứa bé út úp mặt vào chân mẹ hoảng hốt. Cách đó vài bước chân, chiếc phích nước đỏ tan tành vỡ nhiều mảnh thủy tinh, nước lênh láng dưới nền nhà vẫn còn bốc hơi. Thằng An ôm lấy cánh tay đã bị bỏng.
Đưa thằng An từ trạm xá về với vết thương bỏng cuốn bông băng trắng xóa, ông ngồi thừ bên cạnh nhìn thằng bé thiêm thiếp ngủ. Con dâu út mang bát cháo từ dưới bếp đặt lên bàn. Nó tần ngần đứng nhìn thằng bé. Thằng An đã che cho đứa em út khi đứa bé kéo đổ cái phích nước nóng trên bàn. Chẳng ai nghĩ một đứa trẻ chậm chạp, khuyết tật lại có thể biết bảo vệ người khác. Ông vừa thương, vừa nhen lên niềm hi vọng. Biết đâu một điều kì diệu sẽ đến với thằng An. Liệu có ngày nó sẽ lớn hơn, khỏe lên và có thể đi học như những đứa trẻ khác. Niềm hi vọng mong manh vừa chợt hiện lên như một sợi khói cũng đủ làm ông vui mừng, muốn bám víu vào đó. Nhìn con dâu út lấy khăn lau mặt cho thằng An, ông lại chợt nghĩ đến người mẹ chẳng rõ tăm tích của nó. Giá mà nó có mẹ, lúc như thế này, trong vòng tay và hơi ấm của mẹ thì tốt biết bao. Thằng An mơ sảng gì đó, đôi tay nó vô thức hua lên không trung. Ông nằm lấy đôi tay nó, vỗ về thằng bé.
Trung thu năm nay, thằng An chẳng thể dậy khỏi giường. Vết bỏng đã lành, nhưng ngay sau đó, nó liên tục rơi vào những cơn sốt mê man. Suốt nhiều ngày nằm viện, nó được phát hiện ra những căn bệnh lạ.
Những căn bệnh ẩn náu âm thầm trong cơ thể của nó như chực chờ thời khắc yếu ớt bất chợt bùng lên, lấn lướt, không sao ghìm giữ. Chẳng rõ thân thể nhỏ bé của nó đã cố gắng âm thầm chống chọi ra sao cho đến lúc này. Hơn một tháng nằm viện, ông đã không còn sợ hãi như lần đầu khi thấy thằng bé lên cơn co giật, hay tím tái tay chân. Những nỗ lực chẳng thể níu giữ thêm được, mái tóc ông cũng đã bạc đi nhiều.
Ngày đưa thằng An về nhà, ông Bảy nhìn chiếc đèn mua cho nó chưa một lần được thắp sáng, để ngay ngắn trên đầu giường. Thằng An mặt đỏ bừng vì những cơn sốt, bàn tay lạnh toát, run rẩy. Ông chẳng biết làm gì hơn là đắp chiếc khăn ấm lên trán nó. Nỗi lo lắng bao lâu nay đã đến, gần lắm, chực chờ ngoài cánh cửa kia. Trong cơn sốt mê man, thằng An gọi ông. Cả tuổi thơ và cuộc đời của nó chỉ biết đến ông. Ông nghẹn lòng nắn nhẹ cánh tay nó. Chưa khi nào, ngay cả trong những tháng ngày trai trẻ lăn lộn ngoài chiến trường, đối diện với bom đạn, sự sống và cái chết, ông lại cảm thấy tuyệt vọng và bất lực như lúc này.
Một ngày mưa xám ngắt, mịt mù khi mùa ngâu quay trở lại, ngoài vườn rau chẳng được chăm chút, cỏ dại mọc lên nham nhở giữa những luống đất lổn nhổn chưa kịp cày xới kĩ càng. Thằng An nằm lịm, chân tay lạnh. Vừa hôm kia, nó bỗng dưng tỉnh lại, gọi ông, rồi sau đó gọi mẹ. Câu gọi mẹ lần đầu tiên từ khi nó sinh ra. Nó nhìn ra phía cửa rồi ngày hôm sau, chìm vào mê man, cơn mê sâu thăm thẳm hơn những lần trước. Đến mấy ngày nay, nó không còn nói sảng, không còn nóng sốt, người lạnh dần đi. Ông Bảy ngồi thất thần. Người trong nhà lặng lẽ giấu ông đi lo toan, mua bán. Ông biết, nhưng chẳng nhìn, chẳng nói. Khóe mắt đục ngầu của người đàn ông già nua, một thứ gì đó hơn cả nước mắt đọng lại nơi khóe, quánh và cay xè.
Tối nay mưa sụt sùi, rả rích ngoài hiên. Ông cầm bàn tay lạnh giá của thằng An, nghe đâu đó trong mưa tiếng hát ru quen thuộc lắm. Mưa dày hơn, tiếng hát cũng lớn dần lên “Nào ngủ đi con, mùa đông đang tới ngoài hiên. Nào ngủ đi con, mùa đông trên cánh bầy chim...” Trong một khoảnh khắc ngắn, ông như thấy ngoài ngõ, bên gốc ổi già cội đang nở hoa trắng, một bóng dáng mờ mờ đang đứng lặng im, mái tóc dài buông xõa. Ông giật mình. Có phải mẹ thằng An, mẹ nó đã về nhà sao? Ông định nhổm dậy nhưng nhìn lại phía khoảng sân chỉ là bóng tối trống trải. Bàn tay thằng An buông thõng, khuôn mặt giãn ra bình thản. Mưa dày hơn, mù mịt như sương khói, lời hát ru nhỏ dần, xa dần rồi mất hẳn. Ông lại thấy An của ông trong giấc mơ hôm nào, đôi bàn chân lành lặn, khỏe khoắn bước thật nhẹ qua thảm lá rụng, qua những đám mây vàng nặng trĩu, qua cánh rừng trơ trụi lá. Tay nó cầm chiếc đèn lồng ông mua cho, băng qua những hố bom đạn gập ghềnh, về phía bên kia nơi có cánh diều đang bay lên, bay lên mãi. Nơi ấy là khoảng rừng xanh ngắt bình yên. Nó quay lại nhìn ông mỉm cười và khuất bóng...
N.T.L
VNQD