Cảm xúc lớn của thời đại luôn hiện diện trong mỗi người nghệ sĩ

Thứ Hai, 04/08/2025 11:30

Nhạc sĩ Vũ Thiết đã gần bước sang tuổi 70, nhưng mỗi lần gặp ông, tôi vẫn cảm nhận rõ ngọn lửa âm nhạc trong ông luôn cháy lên một cách bền bỉ và đầy nhiệt huyết. Ở con người, ở tác phẩm của ông thường toát lên vẻ từ tốn, sâu lắng, như mạch nước ngầm miệt mài chảy, nuôi dưỡng những giai điệu thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước.

- Thưa nhạc sĩ Vũ Thiết, khi nhắc đến tên ông, hẳn nhiều người sẽ nhớ đến những bài hát như Nghe câu quan họ trên cao nguyên; Khúc tráng ca biển; Bắc Ninh ngày tôi về… những ca khúc này cũng đã ghi dấu cho mỗi chặng đường sáng tác của ông. Vậy xin được hỏi, con đường âm nhạc của ông đã bắt đầu ra sao?

+ Tôi luôn tin rằng mỗi con người đều có một cái “mệnh”. Tôi mê âm nhạc từ nhỏ và năm 20 tuổi, tôi bắt đầu sự nghiệp với vai trò nhạc công sáo trúc tại Đoàn Ca múa Thái Bình. Nhưng bản tính tuổi trẻ thích khám phá đã đưa tôi vào Buôn Ma Thuột, đầu quân cho Đoàn Ca múa Đắk Lắk.

Năm 1980, trong một chuyến biểu diễn ra Hà Nội, Đoàn được Thành ủy Hà Nội tặng một cây sáo Flute. Tôi được giao giữ cây sáo ấy và theo học cấp tốc tại Nhạc viện. Thầy dạy rất quý tôi, động viên tôi thi chính quy chuyên ngành Flute và còn gửi cả giáo trình vào tận Đắk Lắk để tôi ôn luyện.

Cũng vào thời điểm đó, nhạc sĩ Nguyễn Cường vào Buôn Ma Thuột dạy lớp sáng tác. Anh đọc một số ca khúc của tôi và nói một câu làm thay đổi cả cuộc đời tôi: “Em có năng khiếu sáng tác đấy. 25 tuổi rồi, giờ học để thành một nhạc công thì tiếc lắm. Em nên thi vào ngành sáng tác”. Tôi nghe theo lời khuyên ấy, chuyển hướng, thi vào chuyên ngành sáng tác của Nhạc viện. Sau khi tốt nghiệp, tôi về công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu.

- Thế còn bài Nghe câu quan họ trên cao nguyên được ông sáng tác ở thời điển nào, thưa nhạc sĩ?

+ Năm 1981, khi tôi đang theo học lớp sáng tác dành cho các nghệ sĩ là người dân tộc thiểu số và những người đang công tác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, tình cờ tôi đọc được một bài thơ có tên Nghe câu quan họ trên cao nguyên của nhà thơ Hữu Chỉnh đăng trên báo. Ngay khi đọc, tôi thấy bài thơ có ý tứ sâu sắc và rất giàu nhạc tính nên đã quyết định phổ nhạc.

Thật ra thời điểm ấy, tôi viết bằng tất cả sự say mê và cảm xúc của mình, rồi được các thầy trong lớp góp ý, chỉnh sửa. Khoảng một năm sau, khi đoàn nhạc sĩ của Đài Tiếng nói Việt Nam vào Đắk Lắk công tác, trong đó có nhạc sĩ Thế Song thì tôi mới có cơ hội gửi một vài tác phẩm cho đoàn. Nhạc sĩ Thế Song đã chọn lựa và quyết định thu thanh ca khúc Nghe câu quan họ trên cao nguyên tại Đài. Lúc ấy, tôi thực sự vỡ oà trong niềm vui khi lần đầu tiên ca khúc của mình vang lên trên sóng phát thanh quốc gia.

Từ khi xuất hiện đến nay, Nghe câu quan họ trên cao nguyên vẫn được phát sóng thường xuyên và đón nhận nồng nhiệt bởi nhiều thế hệ công chúng. Đó là một kỉ niệm vô cùng đặc biệt trong hành trình âm nhạc của tôi.

- Ngay từ ca khúc Nghe câu quan họ trên cao nguyên, được ông sáng tác, người nghe đã cảm nhận được một Vũ Thiết khá nặng lòng với những làn điệu dân ca. Sau này, chất liệu âm nhạc dân gian càng hiện rõ hơn trong nhiều sáng tác của ông. Việc ông sử dụng những yếu tố dân gian trong âm nhạc là để tạo nên dấu ấn riêng biệt, hay là cách để đưa âm nhạc đến gần hơn với công chúng, thưa nhạc sĩ?

+ Vâng, đây là một câu hỏi mà tôi cho là rất thú vị. Nếu nói về bài Nghe câu quan họ trên cao nguyên, thì ngay khi sáng tác, tôi hoàn toàn không có chủ ý sẽ sử dụng chất liệu gì, đưa yếu tố nào vào. Tất cả những gì có trong bài hát đều đến với tôi một cách rất tự nhiên, rất bộc phát. Có lẽ một phần là bởi tôi sinh ra và lớn lên ở vùng quê Thái Bình, nơi có làn điệu chèo vô cùng đặc sắc và cũng từ nhỏ, tôi đã được tắm mình trong không gian dân ca, trong đó có cả những làn điệu quan họ. Vì vậy, khi đọc bài thơ Nghe câu quan họ trên cao nguyên mà chỉ riêng cái tên thôi đã như một giai điệu vang lên trong tâm trí tôi, khơi nguồn cho cảm hứng sáng tác ngay lập tức.

Sau này khi nhìn lại, tôi mới hiểu rằng sự bộc phát ấy thực ra rất đúng hướng. Nhiều thế hệ nhạc sĩ đi trước như các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Văn Chung, Hoàng Vân, Phó Đức Phương… đều có những tác phẩm gắn bó sâu sắc với âm nhạc dân gian. Dân ca chính là hồn cốt của dân tộc. Nếu ta không bắt rễ từ đó, mà chỉ vay mượn chất liệu từ âm nhạc phương Tây hay các nền văn hóa khác thì âm nhạc ấy, dù có hiện đại đến đâu, cũng không còn mang đậm bản sắc Việt Nam.

Tôi nghĩ, các nhạc sĩ trẻ hôm nay cũng nên nhìn về âm nhạc dân gian như một nguồn chất liệu quý báu, từ đó kết hợp với hơi thở đương đại để tạo ra con đường đi riêng cho mình. Dân ca không chỉ là cái gốc của âm nhạc dân tộc, mà còn là yếu tố định hình nên bản sắc, phẩm tính của người Việt. Dù bạn có sáng tạo đến đâu, hiện đại đến mức nào, thì điều quan trọng nhất vẫn là giữ được linh hồn của âm nhạc dân tộc trong tác phẩm của mình.

- Nói về việc sử dụng chất liệu âm nhạc dân gian trong sáng tác, hiện nay có rất nhiều nhạc sĩ trẻ cũng đang khai thác yếu tố này theo nhiều cách khác nhau - từ truyền thống đến hiện đại, thậm chí kết hợp với nhạc điện tử. Ông đánh giá như thế nào về xu hướng này, và theo ông sự cần thiết để giữ được “hồn dân tộc” khi đưa chất liệu dân gian vào âm nhạc đương đại là gì?

+ Khi sáng tác mà ta đưa chất liệu dân gian vào tác phẩm, đã là mang hồn dân tộc rồi. Nhưng nếu từ những gì dân gian, đơn sơ, mộc mạc ấy mà ta phát triển lên, kết hợp với yếu tố hiện đại để tạo ra một tác phẩm mới, mang hơi thở thời đại thì là điều vô cùng đẹp và đáng quý. Vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ: tác phẩm đó có hay không, có chạm đến trái tim người nghe không. Dù anh viết theo phong cách dân gian hay hiện đại, nếu không hay, không tạo được cảm xúc, sẽ bị lãng quên ngay, không thể đọng lại, không tồn tại được đâu. Việc kết hợp giữa âm nhạc dân gian và hiện đại là một hướng đi rất đúng. Các bậc tiền bối của chúng ta đã làm rồi và làm rất thành công. Nhưng với lớp trẻ hôm nay, hay cả bản thân tôi nữa, điều quan trọng vẫn là phải sáng tác được những tác phẩm thực sự có giá trị, có sức sống lâu bền. Nghĩa là tác phẩm phải hay, phải đi vào lòng người. Làm được điều ấy thì mới là đạt yêu cầu.

- Âm nhạc hôm nay đang đứng ở giao lộ giữa truyền thống và hiện đại. Theo ông, đời sống âm nhạc đương đại Việt Nam đang thiếu điều gì để thực sự thúc giục, “gọi dậy” được những cảm xúc lớn của thời đại?

+ Cảm xúc lớn của thời đại luôn hiện diện trong mỗi người nghệ sĩ. Tôi nói vậy bởi lẽ, nghệ sĩ là người có trái tim nhạy cảm, luôn rung động trước những biến chuyển của cuộc sống, của thời cuộc. Họ không thể làm ngơ trước nỗi đau, niềm vui hay khát vọng của con người xung quanh. Chính những cảm xúc lớn ấy, dù là đau thương, giận dữ hay hi vọng sẽ vẫn mãi thấm đẫm trong suy nghĩ, trong tâm hồn của người nghệ sĩ, để rồi được chuyển hóa thành tác phẩm nghệ thuật. Nghệ sĩ, bằng tài năng và cảm xúc của mình, đã phản ánh và nâng tầm hiện thực, để người xem, người nghe có thể rung động, suy ngẫm và đồng cảm. Bởi vậy, tôi cho rằng đời sống âm nhạc hiện nay không thiếu gì cả. Có chăng là đang thiếu sự lắng nghe sâu sắc và thưởng thức thực sự từ công chúng. Ngày xưa, chúng ta chỉ có Đài Tiếng nói Việt Nam, đến cả ti vi cũng hiếm, nên người nghe tập trung hơn, trân trọng hơn. Bây giờ thì quá nhiều phương tiện giải trí như: âm nhạc, điện ảnh, game, mạng xã hội... khiến việc tiếp nhận bị phân tán. Điều đó dẫn đến hệ quả là một tác phẩm, dù hay đến đâu, cũng rất khó có thể tồn tại lâu dài trong tâm trí công chúng.

Tôi nghĩ rằng, các nhạc sĩ hiện nay vẫn đang viết rất nhiều, viết về đủ mọi đề tài, đủ mọi lát cắt của cuộc sống. Nhưng để tác phẩm có thể sống lâu dài trong lòng người nghe thì áp lực và thách thức hôm nay lớn hơn xưa rất nhiều. Nghệ sĩ, cũng như bất kì ai làm nghệ thuật, luôn rất cần công chúng. Cần sự cổ vũ, đón nhận, sẻ chia. Bởi không có khán giả, nghệ sĩ sẽ rất khó giữ được cảm hứng và đam mê. Giống như một trận bóng đá: nếu khán đài chật kín người hâm mộ, khí thế sẽ bùng lên mãnh liệt. Nhưng trên khán đài mà vắng lặng thì người đá cũng chẳng thể thăng hoa lên được. Hay như nghệ sĩ biểu diễn, nếu có đông khán giả lắng nghe thì cảm xúc và “ngọn lửa” trong họ sẽ khác hoàn toàn với khi phải biểu diễn trong sự lạnh nhạt, thờ ơ.

- Có thể thấy, những bài thơ được phổ nhạc đã góp phần làm nên tên tuổi của nhạc sĩ Vũ Thiết. Ngay cả những ca khúc do chính ông viết lời cũng mang đậm chất thơ. Vậy với ông, âm nhạc và thơ ca có mối liên hệ gần gũi đến mức nào?

+ Trời ơi! Riêng về vấn đề này thì tôi có thể nói ngay, thơ và nhạc luôn có mối liên hệ không thể tách rời được. Bởi vì ca từ của thơ luôn sâu đọng, bay bổng, khúc chiết, lấp lánh và giàu nhạc tính. Còn âm nhạc đương nhiên là mảnh đất màu mỡ để những vần thơ ấy cất cánh, thăng hoa. Âm nhạc đã khoác lên cho thơ một hình hài mới với tràn ngập nhịp điệu, giai điệu tạo nên sự vang vọng trong tâm hồn người nghe. Và khi âm nhạc cất lên từ bài thơ đó thì cảm xúc không chỉ được đọc bằng mắt mà còn được lắng nghe bằng cả trái tim. Tôi muốn nói thêm như thế này, nhạc sĩ luôn có thế mạnh về âm nhạc còn nhà thơ có thế mạnh về ngôn từ, về hình ảnh, về sự khái quát. Tôi từng phổ nhạc khá nhiều bài thơ và thấy rằng có bài thơ trong chính ngôn ngữ của nó đã đầy ắp chất nhạc rồi. Chính vì thế tôi cho rằng thơ và nhạc có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời được. Các cụ nhà ta từng nói “thi trung hữu họa”, hoặc “thi trung hữu nhạc”, tức là trong thơ có họa, trong thơ có nhạc rồi. Đối với tôi thì tôi rất cảm ơn những nhà thơ mà tôi đã đọc, đã phổ thơ của họ.

- Thưa ông, suốt hơn 80 năm qua, âm nhạc cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho nhiều thế hệ nhạc sĩ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Thành tựu của dòng nhạc cách mạng là vô cùng to lớn, với biết bao ca khúc đã trở thành bất hủ và “sống mãi với thời gian”. Theo ông, điều gì làm nên sự khác biệt của âm nhạc cách mạng Việt Nam so với các dòng nhạc khác?

+ Rất dễ hiểu thôi: âm nhạc cách mạng Việt Nam, ngay từ khi ra đời, đã luôn hướng con người đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương, và khơi dậy những giá trị cao cả, đẹp đẽ, đầy nhân văn cho dân tộc, cho con người Việt Nam. Chúng ta từng được nghe những ca khúc vang dội từ thời kháng chiến chống Pháp như: Tiến quân ca; Vì nhân dân quên mình; Đoàn Vệ quốc quân; Hò kéo pháo… Và đến thời kì kháng chiến chống Mĩ, là những bản hùng ca chất chứa như: Bài ca Trường Sơn; Chiếc gậy Trường Sơn; Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân; Cô gái vót chông; Vàm Cỏ Đông; Việt Nam trên đường chúng ta đi…

Ngoài những bài hát cổ vũ, tuyên truyền tinh thần chống giặc ngoại xâm, âm nhạc cách mạng còn có vai trò động viên công - nông - binh trong lao động sản xuất, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu lí tưởng tuổi trẻ… Những giai điệu ấy, với sự trong sáng, tha thiết và đầy khí thế, đã đi sâu vào lòng người, trở thành “những bài ca đi cùng năm tháng”.

Chính những yếu tố đó đã làm nên bản sắc của âm nhạc cách mạng, trở thành một “kho vàng ròng”, vừa đẹp đẽ, vừa vô cùng quý giá trong đời sống tinh thần của dân tộc ta.

Tôi xin lấy thêm một ví dụ về sự khác biệt rõ nét giữa âm nhạc cách mạng và một số dòng nhạc khác, như nhạc vàng chẳng hạn. Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt, khi âm nhạc cách mạng là lời hiệu triệu đầy lửa cho người lính và toàn dân ta tiến lên đánh Mĩ, thì ở miền Nam nơi bị kiểm soát bởi Mĩ - ngụy, nhạc vàng lại trở nên thịnh hành. Đa phần những ca khúc nhạc vàng đều mang màu sắc bi lụy, sầu não, không hề khơi gợi ý chí chiến đấu. Chính vì thế, nó không thể góp phần tạo dựng lí tưởng hay hun đúc tinh thần dân tộc như âm nhạc cách mạng đã làm được.

Và phải khẳng định ngay với nhau rằng: âm nhạc cách mạng Việt Nam thật sự hay, hào sảng và giàu có về tư tưởng. Những ca khúc như Tình ca của nhạc sĩ Hoàng Việt chẳng hạn, cũng viết về tình yêu, nhưng là thứ tình yêu rộng lớn, gắn bó mật thiết với tình yêu đất nước, chứ không thuần túy cá nhân. Hay như Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Vàm Cỏ Đông của Trương Quang Lục… đều thể hiện vẻ đẹp vừa thiết tha, vừa hùng tráng, đều mang đậm tinh thần cách mạng và lòng yêu nước sâu đậm.

- Vâng. Bàn thêm một chút về con đường của âm nhạc Việt. Nhiều nhạc sĩ trẻ hiện nay chuộng xu hướng cá nhân hóa, viết cho người trẻ, cho thị trường mà ít quan tâm hoặc lảng tránh những tác phẩm có tầm vóc đề tài, như lực lượng vũ trang, xây dựng đất nước, quê hương, con người. Làm sao để những đề tài lớn đó tiếp tục được khơi sâu và không trở nên cũ kĩ, thưa ông?

+ Riêng tôi thì không nhìn nhận vấn đề mà anh đưa ra theo hướng bi quan hay chủ quan. Trái lại, tôi cảm thấy rất vui mừng khi thấy nhiều bạn trẻ ngày nay vẫn viết về quê hương, đất nước, viết về lực lượng vũ trang với tinh thần đầy nhiệt huyết. Tôi nói như vậy là bởi vì, trong những năm tháng công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi có điều kiện được nghe, được đọc rất nhiều tác phẩm của các tác giả trẻ. Không những thế, tôi còn thường xuyên được mời tham gia chấm các cuộc thi sáng tác âm nhạc chuyên nghiệp cũng như không chuyên, và điều tôi nhận thấy là: đề tài quê hương, đất nước, lực lượng vũ trang hoàn toàn không hề vắng bóng.

Tất nhiên, ngày nay cũng có không ít bạn trẻ lựa chọn viết về những dòng nhạc khác, những chủ đề cá nhân, tình yêu mang hơi hướng bi lụy… Nhưng tôi nghĩ, đó là điều hết sức bình thường. Chúng ta không cần phải lo lắng thái quá, bởi lẽ, những gì trái với đạo đức, phản cảm, không phù hợp với cái đẹp và thiếu tính nhân văn thì sớm muộn gì cũng sẽ bị sàng lọc, đào thải một cách tự nhiên.

Tôi còn nghĩ, trong bối cảnh công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hiện nay, sẽ còn mở ra rất nhiều cơ hội cho văn học nghệ thuật nói chung, cho âm nhạc nói riêng tiến lên phát triển mạnh mẽ, bền vững và đa dạng hơn nữa.

- Năm 2012, ca khúc Khúc tráng ca biển, phổ nhạc bài thơ Mộ gió của nhà thơ Trịnh Công Lộc, đã đoạt giải Nhì (không có giải Nhất) trong Cuộc thi viết về biển, đảo với chủ đề “Đây biển Việt Nam” do Báo Vietnamnet phối hợp với Hội Nhạc sĩ và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Kể từ khi ra đời, Khúc tráng ca biển đã trở thành một trong những ca khúc tiêu biểu về đề tài thương binh - liệt sĩ. Ông có thể nói đôi điều về hoàn cảnh ra đời cũng như cảm xúc đặc biệt khi phổ nhạc bài thơ này?

+ Mỗi lần nhắc đến Khúc tráng ca biển, trong tôi lại dâng trào những cảm xúc rất đặc biệt, rất khó tả. Tôi nhớ năm 2011, Trung Quốc liên tiếp gây ra nhiều sự kiện trên biển, khiến tình hình biển Đông trở nên căng thẳng. Thời điểm đó, Báo Vietnamnet phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức cuộc thi sáng tác thơ, nhạc chủ đề “Đây biển Việt Nam”.

Thú thật, đã từ lâu tôi không tham gia cuộc thi nào cả. Nhưng khi biết đến cuộc thi này, tôi lập tức thấy mình không thể đứng ngoài. Đó không đơn thuần là câu chuyện nghề nghiệp, mà là trách nhiệm của một người công dân, của một nhạc sĩ với Tổ quốc.

Khi ấy, tôi có gọi cho một người anh là nhà thơ Trịnh Công Lộc đang công tác tại Ban Tuyên giáo tỉnh Quảng Ninh để hỏi xem anh có bài thơ nào viết về biển đảo không. Anh Lộc liền gửi cho tôi bài thơ Lời sóng hát, và tôi nhanh chóng phổ nhạc cho bài thơ này.

Ít hôm sau, nhà thơ Trịnh Công Lộc lại gọi báo tin là anh vừa viết xong một bài thơ rất tâm đắc mang tên Mộ gió. Đọc bài thơ, tôi thực sự bị ám ảnh bởi những con chữ đầy sức nặng, dù rất ngắn gọn, súc tích: “…Mộ gió đấy giăng từng hàng từng lớp/ Vẫn hùng binh giữa biển đảo khơi xa/ Là mộ gió, gió thổi hoài thổi mãi/ Thổi bùng lên những ngọn sóng ngang trời”.

Ngay lập tức, tôi phổ nhạc cho bài thơ này và gửi tham dự cuộc thi. Ban đầu, tôi giữ nguyên tên bài hát là Mộ gió, nhưng sau đó các anh trong Ban Giám khảo có góp ý rằng nên đổi tên thành Khúc tráng ca biển để mở rộng hơn về mặt cảm xúc và không gian. Tôi thấy đó là một ý kiến hợp lí, liền trao đổi lại với anh Lộc, và cả hai anh em đều đồng thuận với sự thay đổi này.

Điều khiến tôi thực sự vui mừng, xúc động là kể từ khi ra đời đến nay, Khúc tráng ca biển (trước là Mộ gió) đã nhận được rất nhiều tình cảm và sự đón nhận của khán - thính giả trên mọi miền Tổ quốc.

- Khi ra với Trường Sa, ông đã cho ra đời một loạt ca khúc như Về với Trường Sa; Thư ngoài Trường Sa; Khúc ca lính biên phòng trên đảo,... Đến với rừng xanh núi đỏ, ông cũng có nhiều tác phẩm viết về người lính nơi đây. Ngay cả khi gặp gỡ những người lính quân khí, ông vẫn dành cho họ một ca khúc đầy xúc động, và ca khúc ấy đã được trao giải của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Dường như qua những ca khúc ấy, người nghe có thể cảm nhận được tình cảm nồng ấm và sự chân thành mà ông dành cho người lính, đặc biệt là những người lính công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo. Ông có thể chia sẻ về tình cảm cũng như những đánh giá về công việc của người lính hôm nay?

+ Người lính của chúng ta dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào vẫn mãi là Bộ đội Cụ Hồ. Tại sao lại gọi như vậy? Bởi họ là những con người sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Từ xưa cho đến nay, phẩm chất ấy chưa từng thay đổi.

Tôi xin chia sẻ một vài điều rất cụ thể, từ những gì mình đã trực tiếp chứng kiến trong quá trình đi thực tế sáng tác. Khi tôi ra với Trường Sa, dù ở đảo lớn, đảo nhỏ, đảo nổi hay đảo chìm, ở đâu tôi cũng gặp những người lính mặn mòi giữa nắng gió đại dương, không quản gian nan, chẳng ngại thiếu thốn, ngày đêm làm nhiệm vụ canh giữ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc.

Một hình ảnh khiến tôi đặc biệt xúc động là khi rời một đảo chìm, tôi thấy một người lính gác cứ đứng lặng lẽ, dõi theo chiếc xuồng nhỏ chở chúng tôi rời đi. Đó là một ánh mắt vừa cương nghị, vừa chan chứa thương mến. Khoảnh khắc ấy khiến tôi lặng người. Tôi chỉ ra đảo có vài ngày thôi mà đã thấy rõ sự khắc nghiệt của sóng gió, của đời sống trên đảo. Còn những người lính bám trụ quanh năm suốt tháng, phải đối mặt với biết bao giông bão, thiếu thốn và hiểm nguy thì làm sao ta có thể lấy thước ra mà đo được sự chịu đựng, khó khăn vất vả, thiếu thốn ở họ.

Tôi cũng đã nhiều lần đến với các vùng biên cương xa xôi của Tổ quốc, nơi những người lính biên phòng đang ngày đêm giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng. Trong những đêm mưa gió lạnh buốt, tôi vẫn thấy các anh đi tuần tra, giữ chốt. Có những hình ảnh rất đỗi đời thường mà khiến tôi không thể nào quên, như khi thấy các anh cõng từng can nước từ dưới suối lên đồn giữa địa hình núi cao hiểm trở. Vậy mà gặp tôi, họ vẫn cười rất tươi, nụ cười lấp lánh giữa gian khó.

Tôi cũng từng đến những kho quân khí nằm sâu trong rừng, nơi mà không phải ai cũng biết đến. Ở đó, có những nữ quân nhân ngày ngày làm nhiệm vụ canh giữ kho đạn dược. Họ là những con người rất đẹp cả về tâm hồn lẫn hình dáng, nhưng đã âm thầm hiến dâng tuổi xuân nơi rừng xanh núi đỏ. Họ để lại trong tôi những cảm xúc không thể nguôi, để rồi tôi đã viết nên ca khúc Ngân nga lời suối hát để tri ân và ngợi ca họ, những người lính thầm lặng giữa thời bình.

Đó là thời bình, còn khi chiến tranh, hay mỗi khi thiên tai ập đến với đồng bào, người lính lại là người có mặt đầu tiên vừa căng mình chống chọi lũ lụt, sạt lở đất vừa giúp nhân dân vượt qua hoạn nạn. Thời nào thì người lính, dù nơi biên cương, hải đảo hay bất kì vị trí nào, cũng luôn là những người ở tuyến đầu, sẵn sàng chấp nhận hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Tôi muốn nhấn mạnh một điều: với người lính thì chúng ta không nên và không thể so sánh. Dù là trong thời chiến hay thời bình, người lính vẫn mang trọn vẹn tinh thần của anh Bộ đội Cụ Hồ. Dù cuộc sống có đổi thay, họ vẫn luôn là lực lượng sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân.

- Từng là người chứng kiến nhiều giai đoạn chuyển mình của âm nhạc, theo ông, giải pháp quan trọng nhất hiện nay để gìn giữ bản sắc và nâng tầm âm nhạc Việt là gì, từ góc độ sáng tác, biểu diễn đến đào tạo?

+ Vấn đề anh vừa nêu làm tôi nhớ đến câu nói rất tâm đắc của Thủ tướng Phạm Minh Chính: “Đã làm tốt rồi thì làm tốt hơn, đã nỗ lực rồi thì nỗ lực hơn, đã có kết quả cao thì phải phấn đấu cao hơn nữa”. Tất cả những gì chúng ta đang có, đang làm tốt thì cũng cần tiếp tục phấn đấu nâng lên một tầm cao mới.

Tôi muốn nói thêm về việc nâng tầm âm nhạc Việt: từ trước đến nay, chúng ta quan tâm rất nhiều đến mảng ca khúc, nhưng lại chưa chú trọng đúng mức đến mảng khí nhạc. Anh biết đấy, tinh hoa của âm nhạc không chỉ nằm trong ca khúc mà còn nằm ở khí nhạc - chính là phần nhạc không lời, nơi thể hiện cấu trúc và tư duy âm nhạc ở tầm sâu hơn, hàn lâm hơn.

Thực tế, nhiều quốc gia có nền âm nhạc phát triển mạnh trên thế giới đều có điểm tựa vững chắc ở khí nhạc. Nếu nền âm nhạc của chúng ta chỉ tập trung vào ca khúc thì đó vẫn là một điểm yếu và phát triển chưa toàn diện.

Muốn mạnh về khí nhạc, trước hết cần có một chiến lược đầu tư bài bản và lâu dài: phải xây dựng được các nhà hát lớn, các dàn nhạc giao hưởng có chất lượng cao; đồng thời tạo điều kiện, đầu tư chiều sâu cho các nhạc sĩ chuyên sáng tác khí nhạc. Chỉ khi ấy, chúng ta mới thực sự phát triển được một nền âm nhạc có chiều sâu, có tầm vóc và bề dày văn hóa nghệ thuật.

- Vâng, tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của nhạc sĩ. Trong quá trình tìm hiểu về âm nhạc, tôi nhận thấy có khá nhiều nhạc sĩ Việt Nam viết khí nhạc, và các tác phẩm của họ không chỉ được giới chuyên môn trong nước đánh giá cao, mà còn được giới âm nhạc quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, thật tiếc là phần lớn các tác phẩm ấy mới chỉ được biết tên, chứ công chúng hầu như chưa có cơ hội thưởng thức. Điều này cũng phản ánh phần nào sự thiếu vắng các kênh tiếp cận, sân khấu biểu diễn và truyền thông dành cho khí nhạc.

Xin cảm ơn nhạc sĩ vì những chia sẻ rất thẳng thắn và đầy tâm huyết trong buổi trò chuyện hôm nay.

ĐOÀN VĂN MẬT thực hiện

VNQD
Thống kê