Nhà văn Xuân Thiều với tôi có nhiều kỉ niệm. Kỉ niệm gần đây nhất khi ông mất đã được hơn mười năm (2009), tôi được phân công tham dự lễ đặt tượng ông tại ngôi trường tiểu học mang tên Nguyễn Xuân Thiều trên đất Bùi Xá - Đức Thọ - Hà Tĩnh. Bức tượng của cố đại tá nhà văn Xuân Thiều được đúc bằng đồng do con cháu của ông tặng đặt trang trọng trong khuôn viên của trường. Hôm đó trời mưa lớn, mưa lạnh từ những hôm trước khiến mọi người như gần gũi nhau hơn. Ở Văn nghệ Quân đội, các nhà văn, nhà thơ được đặt tên phố, tên đường, tên trường học khá nhiều. Sớm nhất là Nguyễn Thi sau giải phóng miền Nam 1975 đã được đặt tên một con phố ở quận Nhất thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp đó là Thanh Tịnh, Phùng Quán, Vũ Cao, Nguyễn Minh Châu… và gần đây nhất chính là Xuân Thiều. Ông đã được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2017.
Xuân Thiều từ lâu nổi tiếng với các truyện ngắn viết về chiến tranh. Truyện ngắn Truyền thuyết quán tiên từng xôn xao một thời năm 2019 vừa qua chuyển thể thành phim vẫn còn tạo ra tranh cãi. Nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát vừa là biên kịch vừa tham gia sản xuấtphim hào hứng kể những chi tiết chỉ có ở Xuân Thiều đã được chuyển tải sáng tạo vào điện ảnh. Trong chiến tranh, luôn có những khoảng tĩnh lặng đến rợn người. Có hay không một quán nhỏ thần tiên giữa đại ngàn Trường Sơn? Có hay không những cô gái được sinh ra không phải dành cho chiến tranh mà phải được thực thi những khát khao làm vợ, làm mẹ? Tình yêu, thậm chí cả bản năng tình dục trong chiến tranh có nhất thiết phải được soi chiếu nghiêm khắc đến ngột ngạt? Và nhất là, nhân vật con khỉ độc rình rập, khao khát biểu hiện giống nòi khi thấy các nữ thanh niên xung phong, bộ đội Trường Sơn xinh đẹp trở đi trở lại trong các trường đoạn phim cũng là điểm gây nhiều tranh cãi nhất. Những chi tiết nổi trội nhất trong Truyền thuyết quán tiên đều được đẩy tới tận cùng. Phim như một bài ca, một góc nhìn sâu sắc, khác biệt về người lính trong chiến tranh. Đây cũng là căn cốt nền tảng văn chương của Xuân Thiều. Suốt đời Xuân Thiều theo đuổi cái đẹp, sự lương thiện và nhất là tính nhân văn luôn được hiện ra trong từng nhân vật, các truyện ngắn và tiểu thuyết của ông.
Nhà văn Xuân Thiều (bên trái) trại Trường Sơn năm 1971 Ảnh: TL
Nhà văn Xuân Thiều sinh ngày 01 tháng 4 năm 1930 tại làng Triều Đông, xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1947, ông nhập ngũ, sau đó được phân làm Chính trị viên đại đội ở chiến trường Trị Thiên. Chiến trường Trị Thiên trong những năm chống Pháp luôn hết sức ác liệt, mặt trận luôn phải chia lửa với chiến trường Điện Biên phía Bắc. Những năm tháng ở đây đã rèn luyện bản lĩnh Xuân Thiều kiên cường, quyết đoán và rất nguyên tắc. Những điều này đã cho ông dễ dàng làm việc ở bất cứ đâu. Năm 1959, ông chuyển về Văn nghệ Quân đội làm biên tập viên, rồi Phó tổng Biên tập. Năm 1987, ông được biệt phái sang làm Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam. Ở cương vị công tác nào, vẫn là một Xuân Thiều mềm mại những rất nguyên tắc; linh hoạt và trách nhiệm; không ngại va chạm với cấp trên nhưng nhất mực yêu thương cấp dưới. Với các bạn văn, ông luôn tôn trọng và đồng hành. Khoảng thời gian ông giữ chức Phó ban Sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam cũng là khoảng thời gian nở rộ những tiểu thuyết đóng đinh thời kì Đổi mới: Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng; Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường… đã tạo nên sức nặng và diện mạo của một thời kì văn học mới.
Nhà văn Xuân Thiều viết cái gì cũng hết sức cẩn thận. Vậy mà trong cuộc sống đời thường, Xuân Thiều luôn biết hóm hỉnh tếu táo để mọi việc nhẹ nhàng. Có một lần ở Văn nghệ Quân đội, nhà văn Nguyễn Minh Châu vốn ít nói mà không hiểu tại sao trong một cuộc họp chi bộ lại bô bô: “Thiên hạ bảo cờ đến tay ai người đó phất. Vậy mà cờ đến tay ông Vũ Cao, ông Cao không phất mà cũng không bỏ, tay cứ cứng ngắc như tay gỗ”. Với người khác chắc là gay to. Vậy mà không hiểu Xuân Thiều nói câu gì với Vũ Cao, Vũ Cao lập tức cười vang chảy nước mắt khen: “Anh này giỏi, giỏi…”. Quả thực chỉ có các ông đồ nghệ mới biết cách rút củi đáy nồi nhanh nhẹn đến thế.
Xuân Thiều cùng nhiều nhà văn quân đội khác với bề dày và chất lượng sáng tác đã trở thành những tên tuổi quan trọng của nền văn học cách mạng Việt Nam. Trong những năm chiến tranh, với bút danh Nguyễn Thiều Nam, ông viết những tác phẩm được nhiều người biết tới như: Mặt trận kêu gọi, Chiến đấu trên mặt đường, Gieo mầm, Tâm sự chiến sĩ quản tượng, Chuyện làng Rapồng… Tiếp đó một mạch là: Đôi vai, Một người lính, Khúc hát mở đầu, Đôi vai (Truyện ngắn - 1961); Chiến đấu trên mặt đường (Ký sự - 1968); Mặt trận kêu gọi (Truyện đài - 1969); Thôn ven đường (Tiểu thuyết - 1972); Đảo xa (Tùy bút - 1973); Trước giờ ra trận (Thơ - 1973); Từ một cánh rừng (Truyện phim - 1975); Gió từ miền cát (Truyện ngắn - 1984); Huế mùa mai đỏ (Tiểu thuyết - 1985); Xin đừng gõ cửa (Truyện ngắn - 1994); Tư Thiên (Tiểu thuyết, 2 tập - 1995)… Ngòi bút của ông giàu tính nhân văn qua rất nhiều chi tiết đặc sắc của đời thường được tập trung miêu tả trong các truyện ngắn viết sau chiến tranh không lẫn với ai. Đó cũng là sự độc đáo của ông. Tâm sự về viết truyện ngắn, ông nói rõ: “Văn học phải phát hiện những điều mới mẻ của con người, đào xới sâu vào con người, cả thể xác lẫn tâm linh, cả hành động lẫn tư duy, để cuối cùng hướng con người tới chân, thiện, mĩ”.
Nhà văn Xuân Thiều đã hơn mười năm về với thế giới của người hiền. Ông đã trọn vẹn một cuộc đời cầm súng và cầm bút. Một cuộc đời cần lao, hi sinh và cống hiến với tất cả trí tuệ và sức lực, niềm tin và trái tim của người con xứ Nghệ với quê hương, đất nước, đồng đội, nhất là những người đã hi sinh. Những gì ông, thế hệ ông đã trải qua cũng chính là quãng đường của các nhà văn góp vào tất yếu của lịch sử cách mạng đã đem tới gương mặt mới cho đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam.
PHÙNG VĂN KHAI
VNQD